Thứ Ba, 29 tháng 5, 2012


TRÁI VẢI – TRÁI TIM…

Hè về vải chín đỏ cây
Tiếng ve ru nắng cho ngày ngọt thêm
Bần thần anh lại nhớ em
Thưa rằng : “Trái vải – trái tim mùa hè” !

Thanh Hà 30-5-2012 TD

Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012





CÔ GIÁO EM

Cô giáo em rất đẹp
Có khuôn mặt chữ điền
Đôi má lúm đồng tiền
Mắt bồ câu trong sáng

Em nghe giọng cô giảng
Dịu dàng mà vang xa
Rất nồng nàn,thiết tha
Như mẹ hiền em vậy

Có khi em lại thấy
Cô như trăng đêm rằm !...

XƯỚNG HỌA THƠ LUẬT ĐƯỜNG


TẮM TIÊN Ở BIỂN
(họa bài Tắm Tiên…của bác Duy Đang)

Xứ biển bây giờ cũng “tắm tiên”
“Tiên” già, “tiên” trẻ rất hồn nhiên
Từ đầu đến gót không cần vải
Trước ngực,sau lưng cứ "lộ thiên"
Kẻ tắm vô tư và thoải mái
Người xem thắc thỏm dễ không yên
"Tắm tiên"- đâu phải là tiên tắm
Người tắm,xem ra chẳng mấy tiền !

Làng Hóp 13h07’ 28-5-2012 TD

TẮM TIÊN Ở ĐẤT TỔ
(bài xướng của Đinh Duy Đang)

Con gái quê tôi thật tự nhiên
Khỏa thân giữa bạch nhật,thanh thiên
Chị bên giếng mát xinh như mộng
Em giữa suối trong đẹp tựa tiên
“Xin tí xà phòng”- thời kháng chiến
Gây nhiều điều tiếng buổi bình yên
“Tắm tiên” hay trộm xem “tiên”tắm
Rất mát,lại không phải mất tiền !

Chủ Nhật, 27 tháng 5, 2012

MÁT ƠI LÀ MÁT !
EM TẮM

Sao anh lại rình

Trộm xem em tắm?

Da của em ngần trắng

Da của ái, của êm *

Tay của em lấm lem

Tay của than của bụi

Tay của rừng của núi

Tay của đất của nương.

Em tắm xong lại sạch

Vẫn ngát thơm hoa rừng

Da của em trắng ngần

Là của anh tất cả,

Không phải người xa lạ

Việc gì mà trộm xem!

Em tắm suối giữa mường

Tắm trong mối yêu thương

Có anh đang đứng giữ

Chớ để Tây đến mường.

BẠC VĂN ÙI
 * ái : cha, êm : mẹ ( tiếng Thái)

TIN GIAO LƯU THƠ

Sáng chủ nhật 27-5-2012 CLB THƠ VN huyện Nam-sách tỉnh Hải-Dương đã tổ chức GIAO LƯU THƠ cùng 2 CLB THƠ huyện Kim-Thành Hải-Dương và CLB THƠ huyện Lương-Tài tỉnh Bắc-Ninh .Buổi giao lưu có sự hiện diện của nhà thơ Bùi-Bá-Tuân chủ tịch CLB THƠ VN tỉnh Hải-Dương,nữ thi sĩ Thanh Nhị phó chủ tịch CLB THƠ VN tỉnh Hải-Dương,cùng hơn 40 CB, hội viên của 3 CLB cấp huyện .Buổi giao lưu diễn ra tại nhà trưng bày GỐM CHU-ĐẬU thôn CHU-ĐẬU,xã THÁI-TÂN huyện NAM-SÁCH tỉnh HẢI-DƯƠNG.Đã có trên 50 bài thơ mới và bài hát được trình bày tại đây.Ngoài ra còn có cả ĐỘI CA NHẠC QUAN HỌ BẮC-NINH của huyện Kim-Thành đến góp vui nữa .Có nhiều nhà thơ đã vượt qua tuổi 80 ,tóc đã lên màu bạch-kim,song đều thấy trẻ ra sau những buổi giao lưu như thế này .Ai cũng đều đề nghị sang năm lại giao lưu nữa nhé !Sau đây là một vài hình ảnh về buổi giao lưu:

VỪA NGHE HÁT VỪA ĐỌC THƠ
VỪA SÁNG VỪA BIỂU DIỄN
NHÀ THƠ BÙI-BÁ-TUÂN CT CLB THƠ VN TỈNH HẢI-DƯƠNG
2 NHÀ THƠ NỮ: THANH NHỊ & THÚY HỒNG
CT CLB THƠ NAM-SÁCH & CT CLB THƠ KIM-THÀNH
2 CLB BẠN TẶNG HOA CLB THƠ NAM-SÁCH
NGƯỜI ƠI,NGƯỜI Ở ĐỪNG VỀ !
CHÚC SỨC KHỎE,CHÚC THƠ HAY !
CHỤP ẢNH LƯU NIỆM
NHÀ THƠ TẠ ANH NGÔI & NHÀ THƠ MAI LÝ
NHÀ THƠ TẠ ANH NGÔI & CÁC DIỄN VIÊN ĐỘI QUAN HỌ
THANH DẠ & NỮ THỨ TRƯỞNG
BLĐ GỐM CHU-ĐẬU & 2 Đ/C CẤP BỘ TRƯỞNG,THỨ TRƯỞNG

Thứ Sáu, 25 tháng 5, 2012

SINH NHẬT LÀN THỨ 70 TUỔI ÂM LỊCH CỦA ÔNG THANH-DẠ

KHẨU HIỆU MỪNG SINH NHẬT ÔNG CỦA 4 CHÁU
HỌA SĨ ĐẶNG HUY-TUẤN GÓP PHẦN TRANG TRÍ,KHÁNH TIẾT
LIÊN HOAN TRƯỚC KHI ÔNG THANH DẠ PHÁT THƯỞNG
CHÁU HUY TUẤN & CHÁU VÂN ANH LOẠI GIỎI
CHÁU ĐẶNG HUY KIÊN LOẠI KHÁ
CHÁU NGUYỄN NHƯ DUY LOẠI KHÁ

Thứ Năm, 24 tháng 5, 2012

Thứ Năm, 24/05/2012 - 14:55
Thực hư khu vườn của con trai Bí thư Hải Dương
(Dân trí) - Ông Bùi Thanh Tùng, con trai Bí thư tỉnh Hải Dương Bùi Thanh Quyến, cho biết, cây trồng trong vườn nhà ông không phải là gỗ sưa. Trước thông tin của dư luận về khu vườn triệu đô, ông Tùng khẳng định sẵn sàng giải trình với cơ quan chức năng khi có yêu cầu.
Khu nhà vườn rộng hơn 4.000 m2 của con trai Bí thư Hải Dương Bùi Thanh Tùng tại thôn Đông Tân, xã Ninh Thành (Ninh Giang - Hải Dương) đang thu hút sự chú ý của dư luận thời gian gần đây khi có nhiều cây và đá phong thuỷ quý hiếm. Đặc biệt, một số cây hiện được trồng trong khu vườn được cho là cây gỗ sưa có giá hàng chục tỷ đồng.
Theo tìm hiểu của PV Dân trí, khu nhà vườn triệu đô mà người dân truyền tai nhau được xây dựng gần sát với khu đồng ruộng. Trước đó khu đất ruộng thuộc sở hữu của 4 hộ gia đình trong thôn; sau đó được ông Tùng mua lại.

Khu vườn cây cảnh, đá quý của con trai Bí thư tỉnh Hải Dương.
Tháng 7/2011, ông Nguyễn Xuân Thuấn - Chủ tịch UBND huyện Ninh Giang - đã ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 4.152 m2 tại thôn Đông Tân, xã Ninh Thành mang tên ông Bùi Thanh Tùng.
Bắt đầu từ cuối năm 2011 cho đến thời điểm này (tháng 5/2012), ông Tùng tiến hành cho vận chuyển cây quý, đá cảnh và vật liệu xây dựng để thực hiện dự án xây dựng nhà vườn rất "hoành tráng".
Đi qua hai bên cánh đồng trên đoạn đường nhựa thôn Đông Tân, ngay đầu làng, chúng tôi chứng kiến cảnh người xe vào ra vận chuyển các vật dụng phục vụ cho việc xây dựng nhà vườn rất tấp nập và quy mô. Người dân trong thôn cho biết, gia đình ông Quyến (Bí thư Tỉnh ủy Bùi Thanh Quyến, bố đẻ ông Bùi Thanh Tùng - PV) tiến hành xây dựng khu vườn từ năm ngoái, diện tích đất vườn hiện nay đã được người nhà ông Quyến mua lại từ khu đất vùng trũng của các hộ trồng đất lúa một vụ.

Cây lâu năm (to, bên trái ảnh) được dư luận đồn đoán là cây sưa già
Việc ông Tùng đầu tư xây dựng ở khu đất này, người dân trong làng đều biết, nhưng việc cây trong vườn có phải là gỗ sưa không thì những người nông dân nơi đây không rành. “Các anh muốn hỏi là đá quý gì, gỗ gì thì lên xã, lên huyện mà hỏi!”, một người dân nói.
Tại buổi làm việc với PV Dân trí, ông Thuấn - Chủ tịch UBND huyện Ninh Giang - cho biết: “UBND huyện đã cấp “sổ đỏ” cho diện tích đất 4.152 m2 tại thôn Đông Tân mang tên Bùi Thanh Tùng. Tôi khẳng định việc này vì chính tay tôi ký cấp mang tên anh Tùng vào tháng 7/2011 chứ không hề có cái tên nào là của ông Bùi Thanh Quyến trên diện tích đất ấy cả”.
Theo ông Thuấn, trong sổ đỏ có ghi diện tích đất thổ cư là 500m2 dùng cho việc xây nhà. "Mà ngôi nhà anh Tùng xây trên khu đất cũng chưa đến 500m2. Diện tích đất còn lại được chúng tôi cấp để trồng cây lâu năm", ông Thuấn nói. Khi PV đề nghị được cho xem bản lưu sổ đỏ tại UBND huyện thì ông Thuấn lại hẹn để dịp khác (?!).
Về thông tin có cây gỗ sưa cạnh hòn đá non bộ cao chừng 2m được trồng ở góc vườn nhà ông Tùng, ông Thuấn cho rằng ông không biết vì chưa đến khu nhà vườn lần nào. “Tôi chỉ nghe nói là có cây quý hay cây sưa gì đó, nhưng chúng tôi không đủ thẩm quyền thẩm định mà phải là cơ quan kiểm lâm vào cuộc thì mới rõ thực hư” - ông Thuấn cho hay.

Hàng loạt cây quý lâu năm bên trong khu vườn triệu đô.
Tìm hiểu về lịch sử của diện tích 4.152 m2 đất ông Tùng đứng tên, chúng tôi được ông Vũ Thành Lượng - Chủ tịch UBND xã Ninh Thành - chia sẻ: “Khu nhà vườn dư luận đồn thổi có nguồn gốc từ đất trũng một lúa, phía trước ngôi chùa làng có tên Mỗ Đàn. Trên diện tích đất này trước đó có nhiều hộ canh tác. Đến năm 2003, các hộ làm đề nghị trình lên xã xin chuyển đổi mục đích sử dụng để đào ao, thả cá. Cách đây khoảng 2 năm, anh Tùng con trai ông Quyến mua lại và làm thủ tục trình lên huyện để được cấp sổ đỏ”.
Liên quan đến việc ông Bùi Thanh Tùng tiến hành mua đất để xây nhà và trồng cây cảnh lâu năm quý hiếm, Huyện uỷ - UBND huyện Ninh Giang đã chỉ đạo các đơn vị liên quan về thôn Đông Tân, xã Ninh Thành để tìm hiểu thực hư sự việc. 
Về câu hỏi, khi tiến hành xây dựng, chủ đầu tư nhà vườn có báo cáo lên xã và cơ quan chức năng của huyện về việc tiến hành xây dựng nhà vườn và xin cấp phép theo quy định?, ông Lượng nói: “Tính cho đến thời điểm này, toàn xã Ninh Thành chưa hề có một nhà nào, hộ nào được cấp phép xây dựng mà cũng chẳng có người nào đến xã làm đề nghị xin phép xây dựng công trình cả”.
Nói về khu nhà và vườn cây có giá trị hàng triệu đô, chủ nhân đứng tên khu đất là ông Bùi Thanh Tùng cho biết: “Cây trồng trong vườn nhà không phải là gỗ sưa, nếu không tin thì cứ mời cơ quan thẩm định về kiểm tra sẽ rõ thực hư”.
Theo lời ông Tùng, số cây trồng trong vườn nhà ông không phải là cây gỗ sưa như đồn đoán mà là một loại cây khác có tên là cây hương vườn. Ông Tùng cũng nói ông đang làm việc tại Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hải Dương, việc đầu tư xây dựng nhà vườn là việc làm của cá nhân ông, không liên quan gì đến người bố đang làm Bí thư Tỉnh uỷ. Trước đồn đoán về việc ông tiêu xài "rộng tay", mua xe sang, sắm nhà to và sưu tầm cây gỗ quý hàng trăm năm tuổi, ông Tùng nói sẽ giải trình báo cáo cụ thể sự việc khi cơ quan chức năng hay tổ chức Đảng yêu cầu.
Quốc Đô - Anh Thế

Lãnh đạo huyện Ninh Giang (Hải Dương) khẳng định khu nhà vườn hoành tráng được xây dựng tại xã Ninh Thành không thuộc sở hữu của ông Bùi Thanh Quyến – Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương.

>> Chủ tịch, trưởng công an xã đánh bạc khi trực lễ
>> Hơn 3.000 tổ chức vi phạm trong sử dụng đất

hững ngày qua, dư luận cả nước xôn xao trước thông tin tại xã Ninh Thành (Ninh Giang, Hải Dương) có một khu nhà vườn hoành tráng rộng gần 5.000m2 trị giá hàng trăm tỷ đồng đang xây dựng được cho là thuộc sở hữu của Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương Bùi Thanh Quyến (?).

Một số người dân địa phương phản ánh công trình này được xây dựng trên đất nông nghiệp trái phép chưa được chuyển đổi.

Cây sưa trăm tuổi và hòn đá quý trong khu nhà vườn (Ảnh: GDVN)

Xung quanh những thông tin trên, chiều 22/2, trao đổi với một số cơ quan báo chí, ông Nguyễn Xuân Thuấn, Chủ tịch UBND huyện Ninh Giang khẳng định khu đất đang xây dựng nói trên không thuộc sở hữu của ông Bùi Thanh Quyến - Ủy viên TW Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương mà là của anh Bùi Thanh Tùng (con trai ông Quyến, hiện đang công tác tại một Sở ở Hải Dương).

Ông Thuấn cho biết thêm, lô đất đang được xây dựng có diện tích 4.152m2 được anh Tùng mua lại của 4 hộ dân, sau đó đã được cơ quan chức năng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp mang tên anh Tùng.

Theo báo Giáo dục Việt Nam, khu nhà được thiết kế thành một quần thể nhà vườn hoành tráng với nhà gỗ mái cong, hệ thống non bộ khổng lồ.

Đáng lưu ý khu vườn còn quy tụ được nhiều cây xanh trong danh sách hiếm như cây sưa hàng trăm năm tuổi, tùng la hán, gốc thị lâu năm…

Theo ước tính của giới bất động sản, tổng kinh phí để xây dựng, hoàn thiện quần thể này có thể lên tới hàng trăm tỷ đồng.

Tuy nhiên ông Thuấn cho rằng thông tin đó chưa được kiểm chứng và sẽ có báo cáo đầy đủ sau.

Trước đó, trên báo Giáo Dục Việt Nam, ông Bùi Thanh Quyến đã khẳng định: Thông tin về việc ông xây nhà trên đất nông nghiệp (đất chưa chuyển đổi) là không chính xác và khu đất này đã được mua của các hộ dân ở địa phương và cách đây gần chục năm, đây là đất đã được chuyển đổi, hợp pháp…”.

M.Đức (tổng hợp)

BẤT ĐỘNG SẢN KHỦNG CỦA "ÔNG LỚN" VIỆT-NAM

Choáng ngợp những tòa BĐS khủng của 'ông lớn' Việt

Bên cạnh sở thích tậu siêu xe, thì nhà lầu xưa hay những tòa bất động sản đồ sộ nay là yếu tố then chốt khẳng định đẳng cấp đại gia của các "ông lớn" Việt Nam.
>> 90% lô chung cư ở Hà Nội và TP HCM có chất lượng tồi
>> Chi tiền tỷ để mua đất... cho người cõi âm

Còn nhớ cách đây 5 năm, dư luận bổ ngửa trước một kiểu chơi "ngông" của ông Trần Công Lộc, nguyên Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Cà Mau. Lúc đó, ông Lộc đã chi một khoản tiền khủng, rồi mướn thợ xây ở Cà Mau để xây phủ thờ họ Trần lớn nhất giữa một vùng quê nghèo ở thị trấn Ngã Năm (huyện Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng), có diện tích khoảng 7.000 m2
Bà Trương Hoài Thanh, vợ ông Lộc, đã thừa nhận phủ thờ lớn nhất vùng. Tiền xây cất hết chừng 500 triệu đồng (con số khá lớn lúc bấy giờ). Nhìn từ ngoài, theo đường dẫn vào phủ là chiếc cầu bằng bê tông sơn phết đỏ tươi, cổng chính tòa phủ có mái ngói, rồng phượng uốn lượn, toàn bộ khuôn viên được đóng cọc bê tông, rào lưới B40. Khi qua cổng chính, gặp chiếc cầu hình bán nguyệt bắc qua ao sen. Phủ thờ chính cao vút, mái ngói cong vút trời xanh. Mỗi cây cột phủ thờ đều chạm rồng uốn lượn, cửa bằng gỗ đắt tiền. Phía sau là khu nhà lợp mái để thờ cúng.
Phủ thờ họ Trần hoành tráng của "quan" Trần Công Lộc. Ảnh: TP 
Được biết, vào thời điểm đó, đằng sau việc xây phủ thờ của ông Trần Công Lộc, dư luận còn nghi ngờ tài sản nhiều tỷ đồng của ông này. Theo đơn của tập thể cử tri phường 8, TP Cà Mau, thì tài sản của ông Lộc không dưới 100 tỷ đồng.Cũng "ý tưởng lớn" gặp nhau, năm ngoái, truyền thông liên tục đưa tin ông Nguyễn Đức Lượng, Chủ tịch HĐQT, kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển nhà Trường Linh (trụ sở tại Hà Nội), đã bỏ 10 năm (1998-2008) cùng với số tiền cả trăm tỷ đồng để kỳ công dựng nhà thờ người cha liệt sĩ tại quê nhà. Để thực hiện ý nguyện của mình, ông Lượng đã nhẫn nại thuyết phục làng xóm nhượng lại đất xung quanh. Từ mảnh đất 240 mét vuông, ông mua hết phía trước, mua rộng ra xung quanh và mua xuyên lên tận sườn dãy núi Chí Linh. Mảnh đất gom được rộng tới 5.000 m2, nằm trên một thế đất vàng theo phong thủy. Trước mặt là vòng tay ôm của con sông Kinh Thầy, sau lưng là dãy Chí Linh án ngữ, đúng là dựa núi nhìn sông.
Nếu công việc đào hồ, đắp núi làm đi làm lại vài lần và được coi là kỳ công thì ngôi nhà thờ dát vàng còn tốn kém không biết bao nhiêu công sức, tiền bạc của chủ nhân. Ban đầu, khi đã gom đủ lượng gỗ lim (mua tận Nam Phi) để dựng nhà, đội thợ mộc nổi tiếng của Sơn Tây, gồm vài chục người, có lúc lên đến cả trăm, ăn dầm ở dề tại nhà anh đục đẽo. Suốt mấy năm trời kỳ công, đội thợ mới dựng lên được một ngôi nhà gỗ hoành tráng. Thế nhưng, gia chủ nhòm ngang ngó dọc, thấy không hài lòng, đã dỡ bỏ.
Khu nhà thờ người cha liệt sĩ của ông Nguyễn Đức Lượng. Ảnh: VTC 
Sau đó, ông lại mướn đội thợ giỏi nhất của Nam Định. Thợ mộc thì xẻ gỗ, đục đẽo ngày đêm như xưởng mộc khổng lồ, thợ đá đến từ Ninh Bình thì đẽo gọt, mài dũa đá xanh, đá trắng để lát nền, chạm trổ long, ly, quy, phụng… Cuối cùng, một công trình đẹp, hài hòa, mang đậm văn hóa Việt đã được hoàng thiện và các chuyên gia kiến trúc khó tìm thấy khiếm khuyết.Không phải phủ thờ, mà là lăng mộ... Ông Vũ Hồng K., đại gia bậc nhất Hải Phòng thời bấy giờ, đã thỏa khao khát tìm nơi an nghỉ cuối cùng bằng quần thể lăng mộ hơn 3.000 m2 tại quận Kiến An, với tổng chi phí ước chừng 1 triệu USD. Theo thông tin có được, ông K. đã gặp tất cả những hộ dân xung quanh mảnh đất để thỏa thuận, ngã giá mua lại, dù đắt cỡ nào ông cũng chịu. Cuối cùng, với 9 tỷ đồng, ông đã có trong tay mảnh đất như ý.
Để bắt tay xây dựng lăng mộ cho mình, ông K. đã khăn gói quả mướp vào tận khu vực núi Nhồi, Thanh Hóa để tự tay chọn những khối đá đẹp nhất, đắt nhất. Ông bảo: "Đá xanh, đá đen đủ tiêu chuẩn phải nguyên khối, nguyên tảng, không có đường vân dù chỉ nhỏ bằng sợi tóc, không màu sắc pha tạp". Vì thế, ông K. không dùng cách khai thác bằng nổ mìn mà dùng sức người khai thác, bởi theo ông, đá khai thác bằng nổ mìn sẽ om, sức bền không tốt. Mỗi tảng đá như thế giá từ 10-30 triệu đồng. Và sau 5 năm cần mẫn làm việc của 3 anh em họa sĩ Trần Minh Tuấn cùng hàng trăm thợ lành nghề, khu trung tâm lăng mộ đã được hình thành vào năm 2010.
Cổng vào quần thể lăng mộ thuộc sở hữu của ông Vũ Hồng K. Ảnh: Zing 

Những người công nhân xây dựng ở đây cho biết, từ khởi công đến khi hoàn thành, chủ nhà phải bỏ ra khoảng nhiều tỷ đồng cho phần chi phí xây dựng. Chưa hết, để trang trí cho ngôi nhà này, trong bản thiết kế xây dựng còn được ốp lát bằng các loại gỗ quý và ước tính cũng phải "ngốn" hết khoảng nhiều tỷ đồng nữa. Như vậy, nếu các thông tin mà những người công nhân này cận kề với giá trị thực và chỉ nhẩm tính thì chi phí xây dựng ngôi nhà sẽ là một con số không hề nhỏ chút nào...?

Còn mới đây nhất, theo báo Giáo dục Việt Nam, người dân ở xã Ninh Thành, huyện Ninh Giang - Hải Dương đang đồn thổi nhau và không tiếc lời khen ngợi, ngưỡng mộ đối với độ hoành tráng và kiến trúc tuyệt đẹp của khu nhà vườn trên diện tích đất hơn 5.000 m2 được cho là của gia đình ông Bùi Thanh Quyến - Bí thư tỉnh Hải Dương. Theo điều tra, khu nhà gồm một ngôi nhà 3 tầng (1 tầng hầm và 2 tầng nổi - PV) được thiết kế theo phong cách hiện đại và khác lạ (tức là, ngoài tầng hầm và tầng 1 được xây bình thường thì tầng 2 của ngôi nhà sẽ được làm hoàn toàn bằng gỗ, mái cong hình mái chùa); hệ thống dẫn nước đến 2 hòn non bộ "khổng lồ" bằng đá xanh được thiết kế công phu, đẹp mắt để điều hòa sinh thái cho khu nhà; một "rừng" cây cảnh thuộc dạng quý hiếm cũng khiến mọi người phải ao ước được sở hữu…

Theo Đất Việt

Thứ Tư, 23 tháng 5, 2012

THƠ LỤC BÁT CỦA NGUYỄN-DUY


Thơ Lục bát Nguyễn Duy (22/05/2012) 

 Là một trong số những nhà thơ làm thơ từ khi đất nước còn trong những năm tháng chiến tranh cho đến khi hòan tòan độc lập và chuyển mình thay đổi cùng thời cuộc, Nguyễn Duy luôn luôn trăn trở và luôn tìm cách đổi mới giọng điệu để thích hợp với hòan cảnh. Vốn từng “ca hát quá nhiều về tiềm lực”, lúc cần thiết phải thay đổi, Nguyễn Duy sẵn sàng trở thành người vận động mọi người “đánh thức tiềm lực”, sẵn sàng làm những “câu thơ tuẫn tiết” khi không còn “rưng rưng”, không thể “tình tang phiêu lưu”.
Nhà thơ Nguyễn Duy
Đến thời kỳ của nhà thơ Nguyễn Duy, những thể lọai của Thơ mới  và thơ sau Cách mạng tháng Tám đã ổn định và đã đạt được những đỉnh cao giá trị. Bên cạnh việc vận dụng dựa trên những thành tựu của Thơ mới, các nhà thơ giai đọan này còn phải cố gắng vượt ra khỏi cái bóng của những người đi trước. Hơn nữa, thơ ca đương đại trong sự cố gắng tìm ra diện mạo riêng của mình đã phải cạnh tranh cùng với nhiều lọai hình nghệ thuật phục vụ nhu cầu tinh thần khác để đến được với người thưởng thức, bởi trình độ tiếp nhận của người đọc lúc này đã khác, họ có thêm nhiều đòi hỏi khắt khe với thơ hơn.  Vì vậy, để tìm lại vị trí cho thơ, khẳng định gương mặt mình trong bức tranh chung của thi ca dân tộc hiện đại, nhiều nhà thơ đã phải nỗ lực rất nhiều. Lúc này, có nhiều nhà thơ (nhất là các nhà thơ trẻ – những người thích sự thể nghiệm và không ngại thất bại) đã học tập và tiếp thu các yếu tố cơ bản của thơ hiện đại chủ nghĩa phương Tây như: chủ nghĩa ấn tượng, chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa siêu thực… và thể hiện nó qua các việc biến hóa hình thức thơ sao cho phù hợp với ý đồ diễn đạt của mình.

           Riêng nhà thơ Nguyễn Duy, trên con đường tìm kiếm câu trả lời cho vấn đề hiện đại hóa thơ ca, đã tìm ra được hướng đi riêng của mình, khẳng định được phong cách của riêng mình giữa bối cảnh thơ ca khá phức tạp hiện nay. Nhà thơ nhận ra tầm quan trọng của bản sắc dân tộc trong thời đại tòan cầu hóa, thế nên bên cạnh việc sử dụng ngôn ngữ, chất liệu hình ảnh gần gũi, nhà thơ còn tìm về lục bát – một thể thơ truyền thống của dân tộc – đang dần bị bỏ quên trước những trực giác, tượng trưng, siêu thực, hậu hiện đại v.v…, nâng niu và biến lục bát thành “thương hiệu riêng” của mình. Có thể thấy được tình yêu đặc biệt của nhà thơ với thể lọai này khi khảo sát trong tuyển tập thơ vừa xuất bản của ông: có đến 152 bài thơ lục bát trong tổng số 280 bài thơ. Một tỉ lệ áp đảo!

Mỗi người Việt Nam ngay từ lúc nằm nôi, chẳng mấy ai lại không được đưa nôi theo nhịp điệu dịu dàng của lục bát, chẳng mấy ai lại xa lạ với cánh cò, cánh vạc, với sung chát, đào chua… Lục bát, đó là hồn phách của dân tộc Việt, là “khuôn mặt riêng giữa những  khuôn mặt làng văn thế giới, … có những đường nét độc đáo không thể tìm thấy ở nơi nào, ngòai Việt Nam” [1].  Câu thơ lục bát có sự phối hợp hài hòa giữa dòng 6 chữ và dòng 8 chữ, cùng với nhịp điệu mềm mại và cách phối vần lưng đặc trưng của nền văn minh lúa nước Đông Nam Á đã sống cùng với nhiều thế hệ Việt Nam trong suốt gần 5 thế kỷ nay (bắt đầu từ cuối thế kỉ 15, khi nó được sinh ra cùng với người anh em song thất lục bát). Sự dung dị, mềm mại và khả năng dung nạp đựơc cùng lúc nhiều nội dung đa dạng của đời sống đã khiến cho thể thơ này có sức sống trường tồn. Chỉ hai câu lục bát, cũng đã là một câu chuyện  hòan chỉnh:
“Hồn tôi như hoa cỏ may
Một chiều cả gió bay đầy áo em”
(Nguyễn Bính)
Và từ hai câu lục bát gọn gàng như một giọt nước ấy, cũng có thể biến hóa thành giòng sông chuyên chở cả “cõi người ta”. Không hiếm những dòng sông đã chảy xuyên qua tâm thức nhiều thế hệ Việt Nam như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Hoa tiên ký, Phạm Công – Cúc Hoa…

            Khi Nguyễn Duy đến với lục bát, thơ Việt Nam đã có quá nhiều đỉnh cao về thể thơ này. Bóng râm của những cây đa, cây đề từ ngày xửa ngày xưa như Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, rồi gần hơn là Tản Đà, tiếp đến là Nguyễn Bính, Tố Hữu… gần như che phủ địa hạt lục bát trên thi đàn. Đó là chưa kể đến những gương mặt xuất chúng cùng thời như Bùi Giáng, Đồng Đức Bốn, Nguyễn Trọng Tạo … vốn là những tay chơi được – và chơi khá điêu luyện “cây đàn bầu” lục bát của tổ tiên để lại. Nhưng, theo cách riêng của mình, bằng tình yêu đặc biệt với cây đàn bầu cũ kỹ ấy, nhà thơ Nguyễn Duy đã nâng niu bao bọc, tìm đường mở lối cho “câu thơ  sáu nổi tám chìm” tiến lên trong “thời xa lộ thông tin kẹt đường” hiện nay:
“Tôi mê người lắm người ơi
Cái tai thì cạn cuộc đời thì sâu
Lẩy lên đi hỡi đàn bầu
Những tâm tình ở đằng sau tâm tình”
(Đàn bầu)
Và vì như thế mà thi ca đương đại có “lục bát Nguyễn Duy”, một thứ lục bát rất khác, rất lạ, đến nỗi, chỉ cần đọc lên là thấy ngay bóng dáng của điệu cười “cực bụi”  lẫn cái nhíu mày “cực nghiêm” của Nguyễn Duy.
1. Nói về thể thơ lục bát của Nguyễn Duy, người viết  thích liên tưởng đến chiếc áo dài – quốc phục của người Việt chúng ta. Đó vẫn là chiếc áo dài truyền thống với tà trước tà sau, nhưng là chiếc áo dài đã được cách tân với nhiều chất liệu vải, nhiều kiểu cọ khác nhau. Trông trẻ trung, duyên dáng và đầy vẻ tự tin…

Bản chất của thơ lục bát là đều đặn, nhà thơ Nguyễn Duy trong công cuộc làm mới lục bát vẫn luôn trân trọng đặc tính đều đặn này. Trong tất cả 280 bài lục bát rút từ tuyển tập thơ của ông, không hề có một bài nào có dạng biến thể, cũng không một bài nào  xuất hiện câu thơ sử dụng  tòan thanh trắc. Tất cả đều êm ái và đều đặn với thanh trầm đặc trưng của tiếng nói Việt Nam, cũng là đặc trưng của âm vực lục bát (“những tác phẩm lục bát luôn tràn đầy thanh bằng và có khuynh hướng ngả về âm vực trầm ở cuối câu, do tất cả các vần đều là thanh bằng” (dẫn theo Tại sao lục bát  của Nguyễn Thị Thanh Xuân[2]). Thêm nữa, lục bát của Nguyễn Duy cũng không thuộc vào dạng hiếm của thể lục bát từ xưa đến nay, khảo sát tòan bộ 280 bài thơ lục bát của nhà thơ, người viết chỉ gặp được duy nhất một bài thơ xuất hiện lối hiệp vần giữa chữ thứ 6 của câu lục với chữ thứ 4 của câu bát – mà cũng lại rơi vào trường hợp “lưỡng khả” (tức cũng có thể là hiệp vần 6-4, mà cũng có thể là hiệp vần 6-6):
“Mặt trời là trái tim anh
Mặt trăng vành vạnh là tình của em”
(Bầu trời vuông)
Lối hiệp vần này là lối hiệp vần của lục bát cổ, theo như nhà nghiên cứu Phan Ngọc thì “có lẽ đã chấm dứt  từ thế kỷ 17”, xin lấy ví dụ bằng một đọan trong Thiên Nam ngữ lục, tác phẩm xuất hiện ở thế kỷ 17, thời mà lục bát chưa thực sự ổn định:
“ Những màng lần lữa tháng ngày
Bộ Lĩnh tuổi  rày đã đến mười hai
Thanh cao tính khí khác người
Bàn bạc sự đời mấy kẻ trượng phu
Cửa nhà chút chẳng đóan lo
Sự mọn hồ đo, sự cả hẳn hoi
Việc văn chẳng có trông coi
Những lăm ra đời mà lập công danh
Rằng người đã vả trời xanh
Phú quý đã đành, sang trọng đã chia”

            Đó là những đặc điểm để chúng ta khu biệt tính dân dã và quen thuộc ở lục bát Nguyễn Duy so với lục bát của các nhà thơ khác. Điều dễ dàng nhận thấy là những câu thơ “chìm nổi với đám đông” của nhà thơ rất gần gũi với ca dao, hay nói đúng hơn là hồn vía ca dao nhập cả vào thơ của Nguyễn Duy. Có nhiều câu nhà thơ sử dụng phép “tập ca dao” (cũng như là hiện tượng “tập Kiều” vậy!) rất nhuần nhuyễn, nhiều khi người đọc không để ý kỹ sẽ không thể nhận ra đâu là thơ, đâu là ca dao:
“Thơ ơi ta bảo thơ này
Để ta đi cấy đi cày nuôi em”
(Bao cấp thơ)
“Nhìn về quê mẹ xa xăm
lòng ta chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa
ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
miệng nhai cơm búm lưỡi lừa cá xương”
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)
“Bồng bồng cái ngủ trên tay
Nghe trong gió có gì say lạ lùng
Chừng như cây lúa đơm bông
Chừng như trái bưởi vàng đung đưa cành”
(Lời ru mùa thu)
“Ai làm ra lúng liếng sông
để đưa tu hú sổ chồng sang ngang”
(Vải thiều)
            Một vài trường hợp, Nguyễn Duy sử dụng nguyên vẹn cả câu ca dao, một vài trường hợp khác, nhà thơ sử dụng những chất liệu quen thuộc của ca dao để trộn vào những bài lục bát của mình. Nhưng ở trường hợp nào cũng vậy, việc sử dụng ca dao không hề là một cách làm trang trí, làm duyên. Mỗi bài thơ lục bát có lẫn ca dao của Nguyễn Duy đều gợi ra những góc nhìn mới mẻ, những suy nghĩ sâu sắc về lẽ đời:
Cái cò …sung chát… đào chua
Câu ca mẹ hát, gió đưa về trời”
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)
“Được yêu như thể ca dao
Đủ phờ phạc đất đủ lao đao trời
Tây Tàu thì cũng thế thôi
Y chang cay đắng ngọt bùi khổ đau
Không trầu  mà cũng chẳng cau
Làm sao cho thắm môi nhau thì làm”
(Được yêu như thể ca dao)
            Vào thơ Nguyễn Duy, ca dao như được “nhuận sắc”  - hiện đại và độc đáo, hơn nữa lại trở thành một công cụ diễn đạt nhuần nhị  những thông điệp, những chân lý có vẻ như giản đơn nhưng lại tận cùng sâu sắc:
“Nghìn năm trên dải đất này
Cũ sao được cánh cò bay la đà
Cũ sao được sắc mây sa
Cũ sao được khúc dân ca quê mình”
(Khúc dân ca)
“Bạn tôi kể chuyện quê nhà
Chiều trong câu chuyện lan ra chín chiều”
(Người đang yêu)
            Nguyễn Duy còn có những bài thơ tập phong cách phương ngôn, gợi nhớ các đặc sản vùng miền và đặc biệt là hình bóng con người, bài thơ Hỏi thăm  là một ví dụ tiêu biểu:
Ớt Đông Ba có còn cay
Gạo de An Cựu độ này còn thơm
Hỏi thăm hoa phượng bên đường
Sông Hương mấy bữa  mưa nguồn còn trong
Quán cơm âm phủ còn không
Cô gì hôm ấy lấy chồng hay chưa?
            Sự vòng vo trong cách hỏi thăm làm ta liên tưởng đến lối đối đáp giao duyên của các đôi trai gái ngày xưa, cũng cái kiểu ỡm ờ “Đêm qua tát nước đầu đình – Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen”(Ca dao) rồi rào trước đón sau những chuyện xin áo, chuyện “vợ con chưa có, mẹ già chưa khâu”, cuối cùng mới lộ ra ý định muốn tính chuyện trăm năm. Ở đây cũng vậy, hỏi thăm những chuyện không đâu rồi cuối cùng mới là Cô gì hôm ấy  theo một cách “rất tình cờ”. Sự giả vờ rất duyên này chúng ta sẽ còn gặp trong một bài lục bát khác:
“Chờ em từ bấy đến giờ
Lại làm ra vẻ tình cờ qua đây
Tình cờ gió thổi lá bay
Hóa ra đã hẹn từ ngày chưa quen”
(Ca dao vọng về)
            Sắc thái dễ thương của tình yêu tuổi hoa niên kiểu “làm ra vẻ tình cờ” được Nguyễn Duy thể hiện bằng những câu lục bát đậm chất ca dao dễ khiến ta liên tưởng ngay đến cái kiểu “giả vờ  cố ý” của thi sĩ  Nguyễn Bính vài chục năm trước:
“Cái ngày cô chửa có chồng
Đường gần tôi cũng đi vòng cho xa
Lối này lắm bưởi nhiều hoa
(Đi vòng để được qua nhà đấy thôi)
Một hôm thấy cô cười cười
Tôi yêu yêu lắm nhưng hơi mất lòng
Biết đâu, ồ chả nói chòng
“Làng mình khối đứa phải lòng mình đây”
(Qua nhà)
            Một đặc điểm dễ nhận thấy nữa trong thơ Nguyễn Duy là ông thường dùng ca dao để làm “đề từ” cho các bài thơ của mình, và từ tứ của những câu đề từ ấy, nhà thơ tạo ra tứ mới. Thậm chí, có khi chỉ thay một, hoặc hai từ thôi mà chuyển tải được những sắc thái tình cảm phức tạp và đa diện hơn. Chẳng hạn từ câu ca dao “Yêu ai quá đỗi mà mê tiếng đàn” chuyển sang câu thơ “Mê ai quá đỗi mà ghê tiếng đàn” (Đàn bầu) là một ví dụ. Tương tự như vậy với câu ca dao “Con ơi mẹ dặn câu này – Sông sâu chớ lội đò đầy chớ qua”  đến những câu thơ “Cũ xưa đến vậy là cùng- Sao sông nước cứ trẻ trung thế này - Ai xui người trở về đây - Mẹ răn vẫn nhớ xuồng đầy vẫn đi” (Xuồng đầy). Những ý tứ khai thác nhiều khi đối lập với  ý tứ quen thuộc của ca dao, nhưng là sự đối lập không triệt tiêu. Trong sự đối lập ấy “cả ca dao và cả thơ cùng bay bổng  hơn,  sống động hơn, sâu sắc hơn”. “Phản” nhau nhưng lại nâng nhau lên, làm rõ nhau hơn trong mạch đời hiện đại, đa dạng, đa chiều”[3].
           Nguyễn Duy không chỉ tận dụng những chất liệu nội dung của ca dao mà còn tận dụng những chất liệu hình thức để chỉnh trang cho câu thơ lục bát của mình. Có những câu thơ sử dụng những cặp sóng đôi tương đồng quen thuộc trong ca dao:
“Nợ nần chưa trả đã vay
Chim muông trả vía, cỏ cây trả hồn
Trả cho mơ chút thiên đường
Trả cho nhau chút xót thương luân hồi”
(Xin đừng buồn em nhé)
Cả những kết cấu đối lập mà ca dao thường sử dụng;
“Kính thưa Thị Kính láng giềng
Ai ân thì ít , oan khiên lại nhiều…”
(Kính thưa Thị Kính – Kính thưa liền thị)
“Vợ cười chưa uống đã say
Ngọt bùi thì nổi, đắng cay thì chìm”
(Mời vợ uống rượu)
“Lòng thì ngọt, vỏ thì cay
Má thì cứ đỏ hây hây chết người”
(Cam – Chùm quả)
            Các đại từ nhân xưng thường gặp trong ca dao như mình, ta, người dưng, liền anh, liền chị gắn với lời ăn tiếng nói dân gian cũng được nhà thơ nhặt lấy cho vào lục bát:
“Thôi ta về với mình thôi
Chân trời đành để chim trời nó bay”
(Đường xa)
“Giá như em đã có chồng
Để bòng bong khỏi rối lòng người dưng”
(Lạng Sơn, 1989)
Những hình ảnh quen thuộc của ca dao, dân ca như cây đa, sân đình, con trâu – cái cày, nón mê, nón quai thao, bí bầu… cũng có những vị trí trân trọng trong thơ lục bát của Nguyễn Duy. Ngòai ra, chúng ta còn bắt gặp những bài thơ lục bát có tính chất hài hước như những bài ca dao nói ngược  của thơ ca dân gian trong thơ Nguyễn Duy. Ở những bài ca dao nói ngược, thì cái trái khóay làm rõ hơn cái thuận lý, ví dụ:
“Hùm nằm cho lợn liếm lông
Một trăm quả hồng nuốt lão tám mươi
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười
Con gà mâm rượu nuốt người lao đao”
Ở thơ Nguyễn Duy, những cặp phạm trù sóng đôi đối nghịch nghĩa được hiện đại hóa và mang ý nghĩa khái quát lớn nhờ vào cách sử dụng ngôn ngữ độc đáo, hiện đại:
“Nghêu ngao hát ngọng nghẹo chơi
Người cười nói xúc phạm người ngậm tăm
Siêng làm xúc phạm phàm ăn
Kẻ đi xúc phạm kẻ nằm dài lưng
Đàn kêu tưng tửng từng tưng
Con trâu xúc phạm sợt thừng cột trâu
Bông hoa xúc phạm con sâu
Con cá xúc phạm lưỡi câu ao nhà
Ông bụt xúc phạm con ma
Lão say khướt xúc phạm bà tỉnh queo
Cái sang xúc phạm cái nghèo
Cái ngay xúc phạm cái khèo bẩm sinh
Đàn kêu tinh tỉnh tình tinh
Cái tâm xúc phạm cái hình vô tâm
Cõi dương xúc phạm cõi âm
Cõi thiêng xúc phạm cõi trần tục gian
Đàn kêu tang tảng tàng tang
Nàng chơi đẹp xúc phạm chàng xấu chơi
Ngứa nghề hát ngọng ngheo thôi
Người yêu nhau xúc phạm người ghét nhau”
(Xẩm ngọng)
Những yếu tố hiện đại thông qua việc tiếp thu và cải tiến những chất liệu ngôn ngữ cũng như giọng điệu của ca dao ở thơ lục bát của Nguyễn Duy còn nhiều điều đáng phải bàn. Chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn về khía cạnh này khi đi sâu vào nghiên cứu các phương tiện biểu đạt.      
           Có thể thấy hiện tượng ca dao lẫn vào thơ, thơ trở thành ca dao rất dễ tìm khi đọc lục bát của Nguyễn Duy. Có lẽ cái giọng tâm tình ngọt ngào của ca dao, của những khúc hát ru đã mê hoặc được trái tim và tâm hồn nhà thơ. Là đàn ông, lại là một người đàn ông tự nhận mình là thô kệch, xa lạ với những mềm mại, những dịu dàng, những thanh thóat, nghe nhạc giao hưởng như “nghe xay thóc”, nhìn “nốt trắng, nốt đen trên khuông kẻ” là “luống đỗ nảy mầm”, lại  “u ơ ú ớ ù ờ kinh niên”… vậy mà trong thơ lại có rất nhiều lời ru. Nào là “Lời ru con cò biển”, “Lời ru trong bão”, “Lời ru mùa thu”, Lời ru đồng đội”, “Lời ru từ Mũi Cà Mau”,  rồi cả “Tập ru con” lẫn “Liền anh đi chợ”… rồi cả Thị Mầu, Thị Kính, Thị Đốp, Thị Nở, cả những Tố nữ, những bà, những mẹ, những “chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa” … Những con người đến từ cuộc sống dân dã, đến từ khúc ca dao, dân ca… Tất cả đều ẩn hiện trong những câu thơ “sáu nổi tám chìm”  đằm thắm của Nguyễn Duy. 
Dẫu biết quan điểm “Người thơ phong vận như thơ ấy” của Hàn Mặc Tử không phải khi nào cũng đúng, nhưng đọc thơ lục bát của Nguyễn Duy, khó có thể kìm được cái mỉm cười dịu dàng trước một nét duyên ngầm, rất lôi cuốn ở cả thơ lẫn người. Nét duyên ngầm ấy – giống như núm đồng điếu trên khóe môi cười thiếu nữ, như chiếc răng khểnh trong nụ cười hiền – là nét duyên ngầm có ở một người đàn ông biết sẻ chia và đồng cảm đến tận cùng với nửa thế giới còn lại! Có ai mà không rung động, có ai mà không cảm thấy lòng mình dịu nhẹ khi bắt gặp người nghiêng xuống vành nôi con trẻ và cất tiếng hát ru không phải là người mẹ dịu dàng mà là người cha dẫu vụng về nhưng thành thật? Đó là nét duyên đến từ sự chân thành và bình dị – đó cũng là nét phong cách quen thuộc của nhà thơ Nguyễn Duy.
2. Tuy nhiên, cứ mềm mại, cứ êm đềm thì vẫn chỉ là dáng vẻ của chiếc áo dài cổ điển. Lục bát của Nguyễn Duy là chiếc áo dài tân thời với những đường nét mới, táo bạo và quyến rũ, hiện đại và đầy sinh lực. Chúng ta sẽ thấy câu thơ lục bát của Nguyễn Duy dù khuôn trong sự đều đặn bất di bất dịch của dòng 6 và dòng 8 nhưng vẫn không dấu được vẻ ngang tàng, phóng túng, mạnh mẽ… Dấu hiệu này thể hiện rõ nhất qua hai khía cạnh: nhịp thơ và ngôn ngữ thơ.

            Thường thì  thể lục bát có một lọai nhịp cơ bản, trực tiếp tạo nên âm luật cho nó là nhịp gồm hai tiếng (gọi tắt là nhịp hai), nghĩa là các dòng lục bát dựa trên sự tổ hợp trực tiếp từ các nhịp gồm hai âm tiết. Như vậy, theo thông lệ, dòng lục gồm 3 nhịp hai, dòng bát gồm 4 nhịp hai:
“Êm đềm/ trướng rủ/ màn che
Tường đông/ ong bướm/ đi về / mặc ai”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
“Cày đồng/ đang buổi / ban trưa
Mồ hôi/ thánh thót/ như mưa/ ruộng cày”
(Ca dao)
“Buồn gieo/ theo gió/ ven hồ
Đèo cao/ quán chật/ bến đò/ lau thưa”
(Huy Cận)
            Nhưng thực tế, không phải lúc nào, câu thơ lục bát  cũng chia một cách máy móc thành từng nhịp hai một như thế “Vì nếu làm như vậy, câu thơ chỉ còn một cái khung tách khỏi lời nói, mà thật ra nhịp điệu dù tính theo đơn vị nào cũng gắn chặt với cảm xúc và tư duy được diễn đạt qua lời thơ”, nói như Timôfêép thì nhịp điệu chính là “đơn vị của ngữ nghĩa và ngữ điệu”[4]. Các tác giả của công trình Thơ ca Việt Nam – Hình thức và thể lọai  đã chia dòng 6 chữ của lục bát có 6 dạng ngắt nhịp phổ biến và dòng 8 chữ  của lục bát có 10 dạng ngắt nhịp phổ biến. Ở thơ Nguyễn Duy, dạng phổ biến và dễ thấy nhất ở câu bát bên cạnh nhịp chẵn (bao gồm, 2-2-2-2; 2-6; 2-4-2; 4-4) là dạng nhịp lẻ 3/3/2 (tần suất sử dụng nhịp này là xấp xỉ 15%) - đây là dạng ngắt nhịp không thấy trong số 10 dạng ngắt nhịp phổ biến của dòng 8 chữ mà các tác giả của công trình nói trên đề cập đến:
“Bờ ao đom đóm chập chờn
trong leo lẻo/ những vui buồn/ xa xôi”
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)
“Gió mùa thu đẹp đêm rằm
mẹ ru con/ gió ru trăng/ sáng ngời”
(Lời ru mùa thu)
“Nhớ không sông ộp ọap xuôi
Gió oằn ọai/ hổn hển trời/ phù sa”
(Kính thưa Thị Nở)
Dạng ngắt nhịp như thế này chúng ta cũng có thể tìm thấy ở lục bát thế kỷ 18, chẳng hạn trong Truyện Kiều:
“Nửa chừng xuân/ thoắt gãy cành/ thiên hương”
“Đĩa dầu hao/ nước mắt đầy/ năm canh”
“Lời tan hợp/ chuyện xa gần/ thiếu đâu”
Đến thời Thơ Mới, Nguyễn Bính cũng có những câu thơ được ngắt thành nhịp lẻ 3/3/2:
“Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các / bướm giang hồ/ gặp nhau?”
(Tương tư)
“Anh đi đấy, anh về đâu
Cánh buồm nâu/ cánh buồm nâu/ cánh buồm”
(Cánh buồm nâu)
            Đến thi ca đương đại, những câu thơ với dạng ngắt nhịp như vậy cũng xuất hiện:
“Thập thò trong bụi tre gai
Hoa dong riềng/ của nhà ai/ nở hồng”
(Hoa dong riềng – Đồng Đức Bốn)
“Ba mươi năm một chuyến đò
Chưa xong chuyến/, lại thân cò /sang sông”
(Mong em về trước cơn mưa – Thu Bồn)
“ Gia tài chỉ có bàn tay
Đường gân xanh/ vết chai dày/ thuở xưa”
(Thơ viết tặng anh – Xuân Quỳnh)
            Nhưng, con số 15% không phải là một tỉ lệ nhỏ nếu so sánh trên mặt bằng chung. Con số này đã chứng minh rõ ràng tính ưa nhịp lẻ ở lục bát Nguyễn Duy. Trong thơ lục bát truyền thống, những nhịp lẻ thường xuất hiện trong câu lục khi có tiểu đối, ví dụ “Mai cốt cách/, tuyết tinh thần” (Truyện Kiều); “Người đón liễu/ kẻ đưa hoa” (Sơ kính tân trang); “Non cao tuổi/ vẫn chưa già” (Thề non nước – Tản Đà), và xuất hiện trong câu bát khi có hình thức đối  ở 6 tiếng đầu, như ở những ví dụ đã nêu: Đĩa dầu hao/nước mắt đầy/ năm canh”;  “Lời tan hợp/ chuyện xa gần/ thiếu đâu” (Truyện Kiều). Còn với thơ hiện đại, hiện tượng ngắt nhịp 3/3/2 ở câu bát ngòai lý do nêu trên, có thể còn là do nhịp điệu tâm hồn của nhà thơ chi phối. Cái đều đặn của nhịp chẵn không đạt hiệu quả cao trong mục đích muốn diễn đạt những sắc thái phức tạp của đời sống nội tâm, nhưng nhịp lẻ thì có thể làm tốt việc này. Ngắt nhịp lẻ sẽ thấy câu thơ gần với lời nói thường nhật, thấy nhịp điệu thơ gần với nhịp đời và lời thơ vì thế mà dễ ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người ta hơn:
“Ai buông lửng một cái tình
Để ngân nga/ đến rung rinh/ lòng người”
(Đàn bầu)
“Được yêu như các cụ xưa
Cũng trăng gió/ cũng mây mưa/ ào ào”
(Được yêu như thể ca dao)
Nhà thơ Nguyễn Duy từng tâm sự : Văn chương thời nào cũng cần “đụng đến kinh mạch của xã hội” , nếu không được như vậy thì văn chương chỉ là “thú kể chuyện vặt qua ngày... Để có văn thật đã khó, được người đời chấp nhận đó là văn thật lại càng khó hơn. Làm văn chương thật là phải rũ gan ruột mình ra…” (Theo Lưu Trọng Văn, Nhà thơ Nguyễn Duy: Dù ở đâu tổ quốc vẫn trong lòng (bình luận), www.evan.com.vn).  Nhưng hiện thực thì vốn muôn hình vạn trạng, còn bức tranh nội tâm thì lúc nào cũng phức tạp, thế nên thơ, nhất là câu thơ lục bát muốn sống được và hòa nhập được trong thời đại “xa lộ thông tin kẹt đường” hiện nay chắc chắn phải thay đổi phần nào cái tính êm đềm cố hữu của mình. Sẽ dễ thấy ở lục bát Nguyễn Duy nhiều cách ngắt nhịp khác thường, đó có thể là sự can thiệp của các lọai dấu chấm câu, mà nhiều nhà nghiên cứu gọi là hiện tượng vắt dòng. “Biện pháp vắt dòng  hướng tới một mỹ cảm của sự phá bỏ đối xứng đều đặn, cố làm cho dòng thơ diễn ra tự nhiên theo lối nói thường. Nghĩa là từ ngữ và câu văn  xuất hiện theo trật tự tuyến tính vốn có của câu văn xuôi, và bởi vậy mà dòng thơ lục bát bắt đầu gần gũi với câu thơ tự do, mặc dù trên đại thể, nó vẫn “phục tùng” khá nghiêm chỉnh âm điệu của thi luật lục bát”[5]. Sự cách tân này nảy sinh từ cách xử lý mối quan hệ giữa cấu trúc âm điệu dòng thơ với cấu trúc cú pháp ngữ nghĩa của câu thơ, chúng ta vẫn thấy hiện tượng này trong thơ ca hiện đại, chẳng hạn như trong Tiếng sáo Thiên Thai của Thế Lữ (Trời cao xanh ngắt. Ô kìa – hai con hạc trắng bay về Bồng lai), trong Mùa hoa loa kèn của Ngô Quân Miện (Mưa phùn vừa dứt. Tiếng ve – Cháy ran lên giữa trưa nhòe bóng cây), trong Cổng làng của Bàng Bá Lân (Cổng làng rộng mở. Ồn ào – Nông phu lững thững đi vào nắng mai) v.v… Ở thơ Nguyễn Duy, biện pháp vắt dòng khá phổ biến không chỉ ở thơ lục bát mà còn có ở các thể thơ khác. Vì vậy mà có rất nhiều bài thơ của ông, ở những chỗ xuống dòng, chữ đầu không viết hoa bởi là ý nối tiếp của câu trên, dưới đây là một vài ví dụ ở thơ lục bát:
“Nắng. Hoa đồng nội chói chang…”
(Rau muối)
“Gió luồn tóac lỗ càn khôn. Giá mà…”
(Khải Hòan Môn)
“Chiều đang sâu thắm một màu
Tự dưng lộp độp ngang đầu – ồ mưa!”
(Mưa trong nắng – nắng trong mưa)
“Em – Hoa đào muộn Kỳ Lừa mùa xuân”
(Lạng Sơn, 1989)
“Em – Thần nhan sắc trời sai giáng trần”
(Nét và hình)
            Tính phá cách ở câu thơ lục bát còn thể hiện ở việc nhà thơ đưa những câu nói, những đọan đối thọai của cuộc đời thực tế vào trong thơ:
“Biết rồi!... Vai cứ kề vai
kệ cho mấp mé cả hai mạn xuồng”
(Xuồng đầy)
“Ối giời ơi…nõn nà chưa
Bột trinh bạch đấy – trời vừa rây xong…”
(Trắng… và trắng…)
“Em đừng trách nhé em thương
-    Nào ai biết được giữa đường gặp mưa
Tiếng em như tiếng gió lùa:
-         Thôi đừng nói giọng người xưa, buồn cười…”
(Mưa trong nắng – nắng trong mưa)
Ngòai ra còn xuất hiện một số dạng ngắt nhịp ít gặp – và thường là nhịp lẻ:
“Ô kìa! Đột ngột trăng lên
Trăng/, trời/, trăng láng bạc trên lá rừng
(Trăng)
“Đắng cay chua chát đã từng
Mơ Chùa Hương /cũng chua từng ấy thôi”
(Nếm mơ)
“Lan báo hỉ nở tình cờ
Bông ngô đồng/ rụng xuống bờ Hương giang
(Nhớ bạn)
“Em ơi gió – gió tâm thần
Tầng bình yên/ phía trên tầng bão giông”
( Em ơi, gió…)
“Sáu mồm hai mũi ba tai
Một con mắt / đú đởn vài con ngươi”
(Tập ru con)
Dạng lục bát tách dòng, tức ngắt dòng thơ thành nhiều đọan nhỏ – hoặc chia thành dạng bậc thang từng xuất hiện trong thơ tự do cũng được nhà thơ sử dụng ở lục bát :
“Tre xanh
xanh tự bao giờ
chuyện ngày xưa đã có bờ  tre xanh…
…Năm qua đi tháng qua đi
tre già măng mọc có gì lạ đâu
mai sau
mai sau
mai sau
đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh”
(Tre Việt Nam)
“Gió trên vách đá ù ù
nghe
tù và dội xuống từ cao xanh…”
(Ai Chi Lăng)
Cách trình bày các dòng thơ lục bát thành bậc thang hay thành nhiều dòng thơ có thể có tác dụng gợi ý cách ngắt nhịp thích hợp, song trên đại thể, đây chủ yếu vẫn là phép tu từ trên trang giấy. Dựa vào tác dụng thị giác, rõ ràng biện pháp “leo thang” và “tách dòng” khiến cho các khổ thơ lục bát đều đều với dòng ngắn dòng dài trở nên lạ lẫm, chỉ khi nào đọc lên mới phát hiện ra sự quen thuộc của nhịp điệu lục bát quen thuộc. “Chính là đi giữa cái lạ và cái quen, cái ẩn và cái hiện, độc giả sẽ tìm thấy cho mình những hứng thú thẩm mỹ trong hình thức thơ ca”[6] . Rõ ràng là nếu diễn đạt theo mô hình bằng phẳng, thì những câu lục bát dẫn ra ở trên của Nguyễn Duy sẽ bớt đi rất nhiều tâm trạng… Sự cải tiến dòng thơ lục bát kiểu như thế này của Nguyễn Duy và của rất nhiều nhà thơ cùng thời khác đã chứng minh sức mạnh nội tại trường tồn của thể thơ dân tộc. Một mặt nó thay đổi về diện mạo để thích ứng và hòa nhập vào dòng chảy chung của thơ ca thời đại mới, một mặt khác, cho dù biến hóa thế nào đi nữa thì thể thơ này vẫn giữ được cốt cách âm luật của riêng mình như nó vẫn được gìn giữ từ bao đời nay. Có lẽ, với bản lĩnh này, lục bát chắc chắn sẽ không thể là thứ đồ cổ cũ kỹ để trên bàn thờ tổ tiên mà vẫn có giá trị thực tiễn đối với nền thi ca Việt Nam đương đại. Vấn đề chỉ còn tùy thuộc vào những người sử dụng món đồ cổ này, phải sử dụng sao cho thật khéo, thật sáng tạo để đem lại  những năng lực biểu hiện mới…
3. Điều đáng bàn ở thơ lục bát của Nguyễn Duy không phải là sự mới lạ do gia công thêm vào mà là sự vận dụng rất sáng tạo những thành quả sẵn có của lục bát truyền thống. Những kiểu tách dòng, ngắt dòng, tạo nhịp theo nhiều hình thức khác nhau chưa phải là những cách tân đáng kể và phổ biến của Nguyễn Duy với lục bát. Yếu tố chủ yếu tạo nên diện mạo riêng của lục bát Nguyễn Duy chính là cách vận dụng những biện pháp từ chương học trong việc lựa chọn lối diễn đạt phù hợp mà tiêu biểu là phép trùng điệp trong tòan bài thơ và lặp từ trong từng dòng thơ.
Chúng ta vẫn biết, đặc điểm cơ bản của lục bát dân gian là  chữ dùng giản dị, thiên về biện pháp láy âm và điệp từ, không thích điển cố, lại càng không thực hiện biện pháp đúc chữ, một biện pháp mà các nhà thơ hay chữ ngày trước rất thích. Xin dẫn ra một ví dụ có sử dụng biện pháp này:
“Trải vách quế, gió vàng hiu hắt
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng
Oan chi những khách tiêu phòng
Mà xui phận bạc nằm trong má đào?”
(Cung óan ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều)
              Tác giả dùng gió vàng mà không dùng gió thu  là có chủ ý. Gió vàng  được dịch từ chữ kim phong, và kim là vàng, theo ngũ hành thì mùa thu thuộc kim, cho nên gió vàng là gió thu.  Dùng gió vàng mới chọi được với chữ  như đồng  ở câu dưới. Tương tự dùng chữ phận bạc để chọi với má đào. Tất nhiên tư duy mộc mạc của thơ ca dân gian sẽ không dung nạp được những hình thức cầu kỳ như thế này, mặc dù vậy, sử dụng thành thạo và nhuần nhuyễn những biện pháp của thơ ca dân gian không hề đơn giản. Hàng trăm năm trước, đã từng có trường hợp một bậc thầy chữ nghĩa như Nguyễn Khuyến ngả mũ khâm phục trước hành động dám “nhả ngọc để thành rồng” của Nguyễn Du khi ông chọn lối diễn đạt của “những người trồng dâu, trồng gai” để tạo tác nên khúc Đọan Trường Tân Thanh kỳ vĩ.
Biện pháp lặp từ với nhiều chữ “nước” rất hay thấy trong ca dao, đây là một biện pháp chủ đạo:
“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai, ai nhớ bây giờ nhớ ai?”
Hay
“Cầu này cầu ái cầu ân
Một trăm con gái rửa chân cầu này”
             Việc đúc chữ cùng những khuôn mẫu gò ép của những phép đăng đối tất nhiên không còn là phương pháp ưa thích của các thi nhân hiện đại, khi mà hình thức câu thơ cần phải cố gắng hết sức để chuyên chở những sắc màu phong phú của cuộc sống hiện nay. Nhưng phải  thừa nhận việc sử dụng mạnh dạn và triệt để những mức độ khác nhau của các phép trùng điệp, lặp từ là một đặc điểm khá nổi bật ở thơ Nguyễn Duy. Như đã phân tích ở phần trước, phép trùng điệp được Nguyễn Duy sử dụng với tỉ lệ rất cao trong thể thơ tự do, nay ở lục bát, tỷ lệ này cũng chiếm đến gần 20%. Nhiều nhất là trường hợp điệp từ trong trong khuôn khổ của câu thơ, đặc biệt là dạng lặp từ cách quãng đều đặn:
“Tôi vui tôi ngắm tôi nhìn”
(Trên sân trường)
“Giọt sương giọt nắng giọt mưa vơi đầy”
(Bao cấp thơ)
“Mình sang với bạn sang cùng thu sang”
(Chút thu vàng)
“Vô tư như thực như mơ như gì
…Không ngây không dại không đành phải không”
(Vô tư)
               Chỉ khảo sát riêng trong thể thơ lục bát, dạng lặp từ cách quãng nói trên đã chiếm tỉ lệ sử dụng xấp xỉ 60% (29 lần/48 bài có sử dụng phép trùng điệp). Có thể khẳng định đến ngay cả ca dao cũng không thể có một tỉ lệ áp đảo như thế (xét trên tổng thể)! Nếu cảm nhận theo cảm tính, biện pháp lặp này tạo ra sức nặng đặc biệt  cho ý nghĩa của câu thơ. Đó là sức nặng của  cảm xúc nội tâm. Khi nội tâm tràn đầy cảm xúc thì ngôn ngữ thể hiện cũng phải chứa đựng một mức độ thừa thãi khá cao, nói như nhà nghiên cứu Phan Ngọc thì “cái thừa đó là cái thừa nghệ thuật”[7]. Những câu thơ mà cảm xúc của chủ thể rơi vãi cả ra ngòai khuôn ngôn ngữ chứa đựng nó thừơng luôn dành được sự chia sẻ mãnh liệt và tận cùng của người đọc, bởi một lẽ duy nhất : nó chân thật như cảm xúc lúc tức thời. Chẳng hạn  như việc ta ngậm ngùi trước nỗi đau mất bạn của Nguyễn Khuyến khi đọc những câu thơ như tiếng lòng nấc nghẹn “Bác Dương thôi đã thôi rồi… Rượu ngon không có bạn hiền – Không mua không phải không tiền không mua” (Khóc Dương Khuê), hay xót xa buồn với “Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình” (Truyện Kiều) của nàng Kiều. Điệp từ luôn có ý nghĩa là nhấn mạnh, nhưng nhiều khi, nếu biết dùng sáng tạo, đặc biệt là biết chú ý  đến tính hài hòa của nhịp điệu, âm thanh và hình ảnh, thì biện pháp này còn làm được nhiều hơn thế nữa. Thử tìm hiểu những câu lục bát êm như một điệu valse mùa xuân dưới đây của Nguyễn Duy, chúng ta sẽ thấy ngay:
“Này em cành lấp ló chồi
Tẹo hoa tí cỏ chợt vui giữa buồn
Chợt  phai chợt thắm con đường
Chợt quên chợt nhớ chợt thương lần thần”
(Thời gian)
             Những từ “chợt” được lặp lại đều đặn như những nhịp nghỉ trong bản nhạc, đó là xét về khía cạnh âm điệu. Còn nếu ta hình dung cùng với “phai”, “thắm” rồi “quên”, “nhớ”, “thương”, “lần thần”, thì hình dung đó sẽ là một bức tranh rất thơ mộng về bước đi êm ái của mùa, cũng là bước thời gian đang đi bồi hồi trong tâm hồn thi nhân. Cuộc đời mỗi người ai cũng vậy, bao giờ cũng là “Niềm vui mấp mé nỗi buồn – Ban mai ngấp nghé chiều hôm kiếp người” (Kính thưa liền thị – Kính thưa Tố Nữ), nhưng niềm vui thường nhanh chóng ra đi còn nỗi buồn thì luôn thích bám víu ở lại. Do vậy mà người ta luôn cảm thấy mình quen với nỗi buồn hơn là niềm vui, và cũng do vậy mà những hiện thực đơn giản nhỏ nhoi  như “tẹo hoa tí cỏ” bên con đường “chợt phai chợt thắm” cũng khiến cho người ta rưng rưng “chợt vui giữa buồn”. Những câu thơ lục bát vốn nhiều chữ “nước” đâm ra lại tạo ra được một khung cảnh vừa có nhạc, vừa có họa lại vừa có hồn. Kỳ ảo mà sinh động.  Đó cũng có thể được xem như là một sự “thừa thãi nghệ thuật” lắm chứ ! Nguyễn Duy còn rất nhiều những câu thơ như vậy. Đặc biệt là có những bài thơ sử dụng kết hợp lối điệp từ với thủ pháp  láy âm (allitération)  – một thủ pháp của thơ Pháp mà nhà thơ Xuân Diệu đã từng  sử dụng rất thành công trong bài Đây mùa thu tới (“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang – Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng…”), xin lấy một bài thơ với vần “ăng” làm chủ vận của nhà thơ để minh họa:
“ Người gì người trắng như trăng
trăng gì trăng nói lăng nhăng như người
Trăng đau trăng bạc như vôi
người đau người khuyết người vơi người mờ”
(Người trăng)
          Người và trăng lẫn vào nhau, tình và cảnh lẫn vào nhau, đời người và thời gian lẫn vào nhau – tất cả những sự giao thoa và tan hòa ấy đã nói rất nhiều điều với người đọc. Thao tác kết hợp giữa điệp từ và láy âm của nhà thơ Nguyễn Duy còn thể hiện ở nhiều khía cạnh tài tình khác, đặc biệt là có những cặp lục bát được tạo ra chỉ tòan bằng những từ láy, hoặc phần nhiều là các từ láy:
“thất tha thất thểu văn chương,
kẽo cà kẽo kẹt tai ương đường dài”
(Xin đừng buồn em nhé)
“Bia lon thỗn thện người lon
ễnh ềnh ệnh hỏn hòn hon thùi lùi”
(Boston, 21-6-1995)
Chúng ta sẽ quay lại những sáng tạo đặc biệt này khi khảo sát về những đóng góp cho ngôn ngữ dân tộc của nhà thơ Nguyễn Duy ở một lần khác. Còn ở đây, riêng về lục bát, nói qua để thấy rõ hơn cá tính mạnh mẽ bộc lộ qua những thể nghiệm táo bạo của nhà thơ với thể thơ vốn hiền hòa, êm ái của dân tộc.
Dung hòa được chất truyền thống và hiện đại, tạo ra cái mới mà không xung đột với cái cũ là một điều không phải dễ dàng gì đối với nhiều nhà thơ hiện nay. Có thể thấy Nguyễn Duy phần nào cũng đã khẳng định được phong cách nghệ thuật riêng của mình qua những thể nghiệm này. Tất nhiên là vẫn có những lúc quá đà (trong trường hợp của một số bài thuộc phần “Lục bát đi sứ”) gây cảm giác chóang cho người đọc, nhưng nhiều hơn, người ta vẫn thấy lục bát của Nguyễn Duy mang một vẻ đẹp vừa quen thuộc vừa độc đáo, vừa mang hồn phố những vẫn còn hồn quê …Và quan trọng hơn – khi ngâm nga những câu lục bát ấy, người ta biết đó là lục bát của nhà thơ Nguyễn Duy chứ không phải của ai khác!
            Thơ lục bát cũng như thơ tự do của Nguyễn Duy đều ngầm chứa cái hồn dân gian bình dị ẩn trong vẻ ngoài hiện đại, khoẻ khoắn. Chúng hoàn toàn phù hợp với cá tính ưa suy ngẫm và thích mô tả chi tiết những “việc lớn việc nhỏ” đang ngày ngày diễn ra trong cuộc sống ở nhà thơ.
THƯ MỤC THAM KHẢO
            1-     Nguyễn Phan Cảnh, Ngôn ngữ thơ, NXB Văn hóa thông tin, 2000.
2-     Khánh Chi, Với Nguyễn Duy, những bài thơ lục bát là phần quý giá nhất cuả mình, Báo đại đoàn kết, số 43, tháng 11- 1994.
3-     Nguyễn Duy, Cát trắng(thơ), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1973.
4-     Nguyễn Duy, Mẹ và em (thơ), NXB Thanh Hóa, 1987.
5-     Nguyễn Duy, Quà tặng (thơ), NXB Văn học, Hà Nội, 1989.
6-     Nguyễn Duy, Ve (thơ), NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1989.
7-     Nguyễn Duy,  Sáu và Tám (thơ), NXB Văn Học, Hà Nội, 1994
8-     Nguyễn Duy, Tuyển tập thơ, NXB Hải Phòng, 2002.
9-     Nguyễn Duy, “Nỗi nhớ thời khó thở của Nguyễn Duy (tùy bút), www.tuoitre.com.vn  ngày 21-1-2006.
10-Nguyễn Duy, Tình như rượu chôn sâu đằm lịm, www.tuoitre.com.vn ngày 14-2-2007.
11-Nguyễn Đăng Điệp, Giọng điệu trong thơ trữ tình Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội, 2002.
12-Hà Minh Đức, Bùi Văn Nguyên, Thơ ca Việt Nam hình thức và thể lọai, NXB Văn học, Hà Nội, 1967.
13-Hà Minh Đức, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974.
14-Nguyễn Thái Hoà, Tiếng Việt và thể thơ lục bát, Tạp chí Văn học số 2,1999.
15-Nhiều tác giả, Thơ – nghiên cứu, lý luận, phê bình, NXB Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh.
16- Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2001.
17-Phan Diễm Phương, Lục bát và song thất lục bát, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998.
18-Phan Diễm Phương, Thể thơ dân tộc và sự lựa chọn của nền văn học mới, Tạp chí Văn học số 11 năm 1995.
Vũ Thị Mai