|
Nhà thơ lúc 27 tuổi |
Lưu Quang Vũ sáng tác bài thơ “Trung Hoa” năm 1974.
Lúc này anh vừa trả áo chiến sĩ binh nhì của binh chủng phòng
không- không quân, lo làm nhiều việc kiếm sống ở Hà Nội, trước khi được nhận
vào làm Tạp chí Sân khấu. Cuộc chiến tranh Việt- Mỹ đang đi dần vào hồi kết.
Còn ở Trung Quốc, “Cách mạng văn hóa vô sản” (1966–1976) cũng đang đi vào thời khắc lụi tàn. Năm 1974, hải
quân TQ tấn công chiếm quần đảo Hoàng Sa do chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cai
quản.
Đó là một bài thơ tài hoa, thể hiện rõ tài năng thi ca hiếm có của
Lưu Quang Vũ, người 27 tuổi đời với gốc học vấn chỉ tú tài.
Điểm xuất phát của bài thơ là tình yêu tha thiết văn chương
nghệ thuật Trung Hoa của nhà thơ trẻ. Điểm tới bến là nỗi băn khoăn về thực tại
của một đất nước giàu văn chương nghệ thuật.
Và anh khép lại bài thơ với ước vọng lạc quan, một công thức của
văn chương thời đó.
Mai tan hết mây mù mưa xám
Trung Hoa Võ Tòng,Trung Hoa Lý Bạch
Lại là Trung Hoa từ thưở nhỏ ta yêu. (giangnamlangtu)
TRUNG HOA
Lưu Quang Vũ
Gió
bấc thổi về từ xứ xa
Bên
kia núi cao sừng sững
Trung
Hoa.
Trung
Hoa của tuổi thơ
Tiếng
ngựa hí đêm khuya
Ðoàn
xe Chiến quốc đi trong tuyết
Rũ
rượi tóc râu, đao thương sáng quắc
Não
bạt thanh la xủng xoẻng
Dữ
tợn mà sầu thương.
Bờ
sông trắng hoa dương
Chia
ly buồn đứt ruột
Dậm
chân hát mà từ biệt (1)
Ðường
Thi vằng vặc?
Ào
ạt Hoàng Hà
Quán
núi đêm hàn rượu nóng
Vạt
áo xanh giang hồ
Những
mắt xếch Võ Tòng
Những
đầm sâu Thủy Hử
Người
đi như nước, đông như cỏ
Sáng
suốt và tối tăm
Uyên
thâm mà nhẹ dạ
Tin
ngay mọi điều, dám làm tất cả
Cái
người Tàu kỳ lạ
Ngồi
dầm củ cải giữa đêm khuya?
Lòng
kiên nhẫn của người
Trải
ra trên mặt đất
Ở
bất cứ nơi nào có khói
Trung
Hoa.
Nét
bút vờn như cánh hạc vút qua
Lóng
lánh tay ngà rượu đỏ
Bể
thịt rừng xương Kiệt Trụ
Những
hôn quân bạo chúa
Những
hoàng hậu hồ tinh
Những
anh gàn và những triết nhân
Hái
rau vi, mơ giấc bướm (2)
Trung
Hoa Tây Thi, Trung Hoa Lý Bạch.
Trung Hoa đói rách
Xác người chết trận trắng xương phơi
Trung Hoa tuổi thơ tôi
Đâu phải chỉ bầy ngựa dữ
Đêm lửa đuốc Chi Lăng
Gò Đống Đa vùi xác vạn quân Thanh
Những Mã Viện, Liễu Thăng, Sầm Nghi Đống?
Không ngăn nổi lòng tôi yêu bác Võ Tòng
Cố cung xưa bao đảo lộn kinh hoàng
Như
sóng biển không ngừng một phút
Dưới
liễu xanh, lũ qủi đổi thay màu
Tiếng
chiêng trống, tiếng loa gào thét (3)
Chín
trăm triệu người ồn ào mà nín lặng
Trung
Hoa muốn gì ?
Nhân
dân đi về đâu?
Ðêm
nay
Trang
sách tuổi thơ đưa tôi gặp lại
Gian
nhà nhỏ ven thành
Vách
lủng lẳng cỏ khô, lá thuốc
Một
người đầu trọc
Áo
bông đen khung vải cũ sờn
Một
người không râu lừng lững ngồi im
Giữa hũ
lọ, mực tàu, chăn rách
Chồng
sách dày, đĩa đèn dầu leo lét
Tuyết
rơi trắng xóa ngoài thềm.
Ông Tư
Mã Thiên
Một
mình ngồi thức
Ông
Tư Mã Thiên mắt nhìn sáng quắc
Hiểu
đời, hiểu nước, hiểu dân mình
Một
ông Tư Mã Thiên
Ngàn
ông Tư Mã Thiên
Muôn
ngòi bút uy nghiêm
Ðang
ghi sâu mọi việc (4)
Hồn
bạo chúa nghiến răng trong bụi cát
Mọi
ngai vàng, theo lửa hóa tro than.
Trung
Hoa khổng lồ, Trung Hoa đau thương
Mai
tan hết mây mù mưa xám
Trung
Hoa Võ Tòng, Trung Hoa Lý Bạch
Lại
là Trung Hoa từ tuổi nhỏ ta yêu.
Hà Nội 1974.
(1) Dậm chân hát mà từ biệt: Nhắc chuyện Kinh Kha từ biệt
bạn hữu ở bờ sông Dịch, đi sang Tần hành thích Tần Thuỷ Hoàng, có nhạc sĩ Cao
Tiệm Ly ứng tác một bài ca tống tiễn hiệp sĩ lên đường.
(2) “Hái rau vi, mơ giấc bướm”, nhắc tới hai người nổi tiếng
thời cổ đại.
Khi Chu Vũ Vương lập ra nhà Chu, các quan chế độ cũ đều đi theo.
Riêng Bá Di và Thúc Tề xấu hổ về việc đã can ngăn vua Chu diệt bạo chúa
không được, bèn cùng nhau thề không ăn thóc nhà Chu. Bá Di và Thúc
Tề lên núi Thú Dương, hái rau vi ăn qua bữa. Rau vi không thể nuôi sống được,
cuối cùng hai ông đều chết đói tại núi Thú Dương (thuyết khác kể rằng: có người
vặn hỏi. các ông không ăn thóc nhà Chu thì rau vi trong rừng cũng vẫn của nhà
Chu thôi. Hai ông nghe vậy bèn nhịn ăn rau vi mà chết)… Theo quan niệm đời sau,
hai ông là những “anh gàn” mặc dù trung thành với chủ cũ (vua Trụ).
“Mơ giấc bướm” nhắc chuyện nhà triết học Trang tử nằm mơ thấy mình hóa ra con
bướm, tỉnh dậy hỏi “Bướm hóa thành ta hay ta hóa ra con bướm ?”.
(3) “Tiếng chiêng trống, tiếng loa gào thét”: Cảnh đội quân
Hồng vệ bình hung hăng đấu tố, hạ nhục những người chân chính trong cuộc
CMVHVS (1966- 1976).
(4) “Muôn ngòi bút uy nghiêm/ đang ghi sâu mọi việc”: Nhà
thơ cảnh báo giai cấp thống trị: Có những Tư Mã Thiên hiện đại đang chép vào
trang sử đẫm tội ác của thế kỷ XX này.