Tìm thấy ý tưởng kiến trúc từ... truyện Kiều
(Dân trí) - Trên thế giới, hiếm có tác phẩm văn học nào nhận được sự “sùng kính” của cả một dân tộc như Truyện Kiều. Đã có những cá nhân được vinh danh là nhà Kiều học, từng có ngành nghiên cứu mang tên Kiều học và những tổ chức xã hội mang tên Hội Kiều học.
LTS: Đã có một nền văn học nghệ thuật độc đáo ra đời từ Truyện Kiều như vịnh Kiều, lẩy Kiều. Đã từng có cả một cuốn Từ điển Truyện Kiều và đặc biệt, Kiều còn được coi như một tác phẩm tâm linh có thể đoán định số phận con người qua việc bói Kiều.
Có thể nói bằng lịch sử 300 năm của mình, Truyện Kiều không
chỉ là một tác phẩm nghệ thuật đơn thuần mà đã trở thành một “công cụ”
để phục vụ cuộc sống. Vì vậy, cuộc tranh luận để làm sáng tỏ Kiều -
Nguyễn Du là công việc của quá khứ, hiện tại, tương lai và không có hồi
kết.
Truyện Kiều đã, đang và sẽ tiếp tục là đề tài tranh luận,
tốn nhiều giấy mực, công sức không chỉ của các bậc tao nhân mặc khách mà
còn là đề tài nghiên cứu của nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác
nhau.
Gần đây, các tác giả Phan Tứ Phùng, Hồ Ngọc Minh, Trần Đình Tuấn đã lập ra Tủ sách Trăm năm (lấy
2 chữ đầu trong câu mở đầu của Truyện Kiều - Trăm năm trong cõi người
ta…) nhằm tuyển chọn và giới thiệu các bài viết, bài nghiên cứu đặc sắc
về Nguyễn Du và Truyện Kiều.
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài viết Truyện Kiều với bản thân trong thiết kế của Cố KTS Nguyễn Ngọc Ngoạn. Đây có thể coi là một trong những cái nhìn độc đáo, ứng dụng Truyện Kiều vào trong kiến trúc Việt Nam.
***
Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyên Phó Thủ tướng, Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm:
“Giao lưu, trao đổi, tìm hiểu về Truyện Kiều, về Nguyễn Du là giao lưu,
trao đổi, tìm hiểu về ngôn ngữ Việt, về văn hóa Việt, một nền văn hóa
có truyền thống lâu đời và giàu bản sắc dân tộc. Đó là một hoạt động bổ
ích và thiết thực, góp phần nâng cao dân trí trong một xã hội học tập. Hoan nghênh ý tưởng tốt đẹp của việc thành lập Tủ sách Trăm năm, loại sách chuyên khảo về Truyện Kiều, về Nguyễn Du. Hy vọng Tủ sách sẽ đóng góp thiết thực cho việc nâng cao hiểu biết của bạn đọc về Truyện Kiều, về Nguyễn Du, về ngôn ngữ, về văn hóa Việt” |
Tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du không một người Việt
Nam nào là không thuộc dăm ba câu ngâm nga trong mọi hoàn cảnh mà các
nhà thiết kế chúng ta cũng nhiều khi tay vẽ miệng ngâm se sẽ mấy câu để
hỗ trợ cho việc mình làm.
Riêng tôi, những câu thơ trong Truyện Kiều đã giúp tôi tìm ý trong một số công trình, mà sự việc này đến với tôi một cách thật là ngẫu nhiên.
Khi thiết kế Liên cơ quan (công trình cao 6 tầng ở phố Lê Đại Hành,
thường gọi liên cơ quan Vân Hồ, xây dựng xong năm 1962), công trình ở
trên một khoảng đất một phần là ao, như vậy đất không đồng đều, nhà phần
4 tầng, phần 6 tầng, vấn đề giải quyết móng là nan giải.
Cơ quan nằm cạnh công viên Thống Nhất và ý đồ thiết kế lúc đó là
tạo nên cùng với Bộ Kiến trúc một tấm bình phong sau công viên. Tôi đi
trên đường Nam Bộ nhìn qua Hồ Bảy Mẫu để thấy toàn bộ khối kiến trúc.
Đến cổng nhìn thấy cầu vượt làn nước, vắt mình sang hòn đảo tôi
chợt nhớ đến "Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu" và ý thiết kế liên cơ
quan thể hiện rõ ràng ra trước mắt tôi: làm hai cánh hai bên 4 tầng, và
nhà giữa 7 tầng (6 tầng thường, 1 tầng của cầu thang lên mái).
Nối các tường của 3 nhà với nhau bằng các cầu, như vậy các móng nhà
đều độc lập, không liên kết với nhau, không sợ sự lún của nhà này ảnh
hưởng đến nhà khác. Ý đồ thiết kế được thực hiện và phương án được chấp
nhận. Song cơ quan ngày nay khác hẳn mà đó lại là vấn đề khác... (Xem
bài giới thiệu Liên cơ quan trong Nội san Kiến trúc của Đoàn Kiến trúc
sư).
Thiết kế bể bơi, tôi có ý định tạo nên một khung cảnh vui tươi cho
các bạn trẻ ưa môn thể thao thể dục này và tôi mường tượng đến cảnh tắm.
Đột nhiên câu Thang lan rủ bức trướng huỳnh tắm hoa đến trong ký ức của
tôi và kỳ diệu chữ thang đã khiến đầu bút chì của tôi vẽ cẩu thang từ
phòng khởi động lên mặt bể bơi hình xoáy trôn ốc và kiến trúc trên bằng
một mái tròn như cái lọng che cầu thang.
Hình thù thật khỏe mạnh và khoáng đãng, thể hiện rõ ràng ý và công
dụng của cầu thang. Điểm này là diễn đạt nhất theo nhận xét của các huấn
luyện viên bơi lội, coi như hoàn hảo, song - bao giờ cũng có chữ song -
chưa được thi công... Ý đồ còn đó tôi thiết tha mong rồi đây sẽ được
thực hiện.
Cố Kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn (1912- 1990)
Phòng thu thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam ở phố Quán Sứ là một vấn
đề nan giải trên hai mặt: kỹ thuật về âm thanh mà khả năng của bản thân
chỉ có hạn, kiến trúc ngôi nhà phải nối liền hai nhà có sẵn đặt không
thẳng hàng. Kiến trúc một nhà là mới làm khi hòa bình được lập lại, một
ngôi nhà loại biệt thự xây dựng trước đây trên nửa thế kỷ. Nhiệm vụ của
kiến trúc gay go: ở trên vị trí khá lắt léo, làm sao nối hai thái cực cũ
và mới cho hòa hợp?
Tôi nghĩ phòng thu thanh có tiếng đàn, tiếng hát. Tôi liên tưởng
đến chỗ Thúy Kiều gẩy đàn theo yêu cầu của Kim Trọng. Tôi vừa vẽ vừa se
sẽ ngâm Khúc đâu Tư mã Phượng cầu. Chữ Phượng tôi ngâm với tất cả lòng
trìu mến, với cả một tâm tình đằm thắm. Trước mắt tôi chim phượng bay,
chim phượng lượn và vẽ lên nền trời xanh biếc một đường cong tuyệt mỹ...
Tay tôi đưa bút chì trên mảnh giấy trắng ngần một đường cong nối liền
mặt của hai nhà có sẵn. Đó là hành lang của phòng thu thanh. Đường cong
này đã làm mất sự hẫng về hình khối cũng như về kiến trúc, đã là một đầu
nối giữa cũ và mới (xem Nội san Kiến trúc).
Phòng thu thanh Đài Tiếng nói Việt Nam, theo chủ quan của tôi và
cũng theo dư luận của những người đã sử dụng hoặc tham quan, là một
thành công tương đối khả quan, chúng ta đều có thể đến tận nơi để đánh
giá đúng kết quả.
Nhà giải khát công viên Thống Nhất, nghiên cứu mặt chính phần nối
tiếp phòng giải khát trong nhà và sân lộ thiên, sự biến chuyển từ kiến
trúc bên này qua bên kia quá đột ngột. Giải quyết ra sao? Tôi hí hoáy
vẽ, xóa, tẩy. Mảnh giấy bóng này đặt lên mảnh giấy bóng kia. "Không
được" lại "không được" tôi tự nhủ như vậy...
Tiếng chim sẻ ríu rít vọng đến tôi - dù chỉ là chim sẻ - tôi thoáng
nhớ đến ngoài song thỏ thẻ oanh vàng rồi liên tưởng đến gương nga chênh
chếch nhòm song. Bao nhiêu hình ảnh nên thơ vút đến với tôi và tôi vẽ
chỗ chuyển tiếp mấy chiếc song trên đó treo vài cây phong lan... Kiến
trúc giải quyết có thể coi là tạm ổn, song phải nhận rằng không sao đẹp
bằng lời thơ của Nguyễn Du.
Hồi tưởng lại trước đây trên một phần tư thế kỷ, tôi mới ở trường
ra, đã cùng kiến trúc sư Nguyễn Xuân Tùng thiết kế chùa Quán Sứ Hà Nội.
Một mớ rối bòng bong của các mâu thuẫn về kỹ thuật, về phong cách, về mỹ
quan, về tôn giáo, và về nhiều khía cạnh khác quay cuồng trước mắt
chúng tôi quanh các bản thiết kế đã được chọn lọc.
Chùa thấp, dáng dấp, các chùa thông thường, cửu phẩm liên đài vươn
lên cao... Chúng tôi nghiêng đầu, ngẹo cổ ngắm... Chúng tôi đến thực
địa, đi bên này đường, sang bên kia phố của phần liên đài cao, cao quá,
tầm nhìn quá gần lại còn làm chướng mắt chùa. Bỏ đi, chùa thấp, bình
thường... không được. Làm ra sao? Chúng tôi băn khoăn, suy nghĩ...
"Chùa đâu trông thấy nẻo xa..." Tôi nghĩ tới câu thơ đó một cách
ngẫu nhiên và đặt vấn đề phải làm sao cho trông thấy chùa từ đầu phố...
Đưa chùa lên cao: lênh khênh, mất tỷ lệ, vẽ đi vẽ lại không đạt...
"Sẵn Quan Âm Các vườn ta", không hiểu sao chữ "Các" nhắc tôi đến
"Khuê Văn Các" ở Văn Miếu. Chúng tôi hình dung ngôi chùa hai tầng...
Táo bạo! Lạ kiểu! Quái gở! Đó là những "tiếng bấc, tiếng chì",
chúng tôi kiên trì chịu đựng. Như một gáo nước lạnh dội vào: quan điểm
của tôn giáo buộc Phật phải "tọa liền với đất...". Ở đây, chúng tôi vấp
phải tất cả những cái gì đã ăn sâu vào con người, đã quen thuộc với các
ngôi chùa thấp lè tè với chín, mười một gian chi đó... với ấn tượng hai
tầng là các nhà Tây mới được nhập cảng...
Tôi chùng tay... Kiến trúc sư Nguyễn Xuân Tùng động viên "phải kiên
trì" và chúng tôi mải miết tiếp tục nghiên cứu... Cuối cùng phương án
được chấp nhận. Những ấn tượng ban đầu hình như tiêu tan hết và chùa
Quán Sứ hai tầng đã được xây dựng... Chúng tôi những người thiết kế - tự
nhủ rằng không biết có quá đáng không - đã dám nghĩ, dám làm, đã viết
một dòng nhỏ trong trang sử kiến trúc tôn giáo Việt Nam.
Đánh giá đúng mức chùa Quán Sứ phải đặt chùa trong bối cảnh lịch sử
của thời đại, trong giai đoạn bao trùm bởi một nền văn hóa nô dịch,
trong giai đoạn mà số kiến trúc sư đầu tiên chỉ là đếm trên đầu ngón
tay. Còn nó chưa hoàn toàn Việt Nam, nó còn... và còn cái này, cái
khác... Thì đó lại là chuyện khác.
Cố KTS Nguyễn Ngọc Ngoạn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét