Bí ẩn cột rồng đá khổng lồ ngàn tuổi ở Bắc Ninh (10/02/2012)
Có
một điều kỳ thú khiến các nhà khoa học say mê tìm hiểu, đó là làm cách
nào mà người xưa, với công cụ thô sơ đã vận chuyển được khối đá khổng lồ
này lên gần đỉnh núi Dạm? Theo tính toán, cột đá này nặng ít nhất 54
tấn.
Kinh Bắc là vùng đất
cổ kính, với dày đặc các di tích lịch sử xếp hạng quốc gia. Tuy nhiên,
trong một báo cáo đề xuất công nhận bảo vật quốc gia gửi đến Cục Di dản
Văn hóa, Bảo tàng Bắc Ninh lại chọn cột đá chùa Dạm là bảo vật đứng đầu.
Vậy cái cột đá chưa mấy ai biết đến đó có gì đặc biệt, được coi trọng
như thế?
Những ngày đầu năm Nhâm Thìn này, tôi đã tìm về chùa Dạm, để được tận mắt cột rồng đá, bảo vật hàng đầu của tỉnh Bắc Ninh.
Chùa Dạm được dựng lại tạm bợ, chẳng có ai thăm viếng.
Chùa Dạm, dù tôi
chưa đến bao giờ, song khi xướng cái tên đó lên, lại có vẻ như thân
thuộc lắm. Người tứ phương, xe cộ nườm nượp đổ về quả núi Đại Lãm, thuộc
xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Tôi cũng hòa theo dòng người
đó đến núi Đại Lãm. Nhưng hóa ra, dòng người đổ về chùa Hàm Long, nằm
trên sườn Bắc núi Đại Lãm.
Lên chùa Dạm có 2
đường, một đường đi bộ theo các bậc đá quanh co từ chân lên đến đỉnh
núi, một đường xe ủi mới mở chạy thẳng lên chùa. Cả hai đường đều vắng
quay vắng quắt, chẳng có bóng người. Ngôi chùa tuềnh toàng, tạm bợ, nhỏ
xíu cũng cửa khóa, chẳng có ai. Giờ tôi mới hiểu, chùa Dạm chỉ còn là
thứ trong sách vở.
Cột đá chạm rồng uy nghi và bí ẩn trên núi Đại Lãm.
Thứ tôi cần tìm nằm
uy nghi ngay cuối con đường mới mở từ chân núi lên tận ngôi chùa Dạm
dựng lại tạm bợ. Tôi thực sự sững sờ trước một tuyệt tác đã đứng đó gần
1.000 năm. Trải bao mưa nắng, trơ gan cùng tuế nguyệt, công trình điêu
khắc độc nhất vô nhị này vẫn chứa đựng những bí mật chưa được khám phá.
Thật không quá lời,
khi các cán bộ Bảo tàng Bắc Ninh khẳng định rằng, cột đá chùa Dạm là
công trình nghệ thuật đặc sắc bậc nhất thời Lý còn lưu truyền cho hậu
thế.
Những nét chạm khắc tinh xảo.
Lang thang loanh
quanh khu vực núi Dạm, tôi gặp được cụ Nguyễn Thị Thập. Cụ Thập là Phật
tử, thường xuyên lên chùa lau dọn, trông giữ những di vật để ngổn ngang,
dãi dầu mưa nắng. Theo cụ Thập, truyền thuyết trong làng đều khẳng định
rằng, cột đá chạm rồng có từ thời Lý.
Theo truyền thuyết,
người phương Bắc đã trấn yểm linh hồn Cao Biền ở quả núi Dạm. Vì muốn
xâm lược nước ta, nên tìm cách khiến Cao Biền sống dậy.
Họ đã mang 100 nén
hương đến nhờ một người dân trong vùng đốt ở núi này. Khi đốt xong nén
hương cuối cùng, Cao Biền sẽ sống dậy và nhà Lý sẽ sụp đổ, nước Nam sẽ
về tay phương Bắc. Biết ý đồ xấu của họ, nên người này đã đốt luôn 100
nén cùng lúc, khiến Cao Biền không sống lại được. Cột đá được dựng lên
vừa để tưởng nhớ người dân anh dũng kia, vừa là biểu tượng của sự vững
bền.
Thân giống rắn.
Chẳng thế mà, như
lời hòa thượng Thích Thanh Dũng (trụ trì chùa Hàm Long kiêm chùa Dạm),
dù trải ngàn năm, đổi thay thế sự, chùa bị nhiều đời phá hoại, nhưng cột
đá vẫn vẹn nguyên. Các cụ truyền rằng, hễ ai động đến cột đá, lập tức
thần sét sẽ giáng đòn chí mạng vào đầu. Chẳng ai dám động vào cái cột đá
kỳ bí ấy.
Theo hòa thượng, các
nhà khoa học đo đạc thấy rằng, không tính phần chôn sâu dưới đất, cột
đá này cao 5m. Cấu trúc điêu khắc chia cột làm 2 phần. Phần dưới hình
vuông, phần trên hình tròn. Có thể điều này biểu trưng cho quan niệm
trời tròn đất vuông của cha ông ta.
Phần dưới cột đá hình vuông, phần trên hình tròn biểu tượng "trời tròn đất vuông"?
Khối hộp vuông phía
dưới có tiết diện một cạnh 1,4m và một cạnh 1,6m. Phần tròn trên thu nhỏ
hơn một chút, nhưng đường kính cũng tới 1,3m.
Điểm nhấn của phần
tròn và cũng là của toàn bộ cột đá này chính là tác phẩm điêu khắc rồng
đá theo phong cách thời Lý. Thời Trần, Lê sau này điêu khắc rồng mang
tính cách điệu cao, nhưng thời Lý thì rất chi tiết, tỉ mỉ. Đôi rồng với
vuốt 5 móng sắc nhọn, bờm thành búi, thân giống rắn quấn chặt cột đá,
đuôi ngoắc vào nhau, miệng ngậm ngọc, đầu vươn cao chầu mặt trời vừa uy
nghi vừa sinh động.
Đứng từ xa nhìn lại,
thấy cột đá hiên ngang trên sườn núi, tiến lại gần thấy cột đá vô cùng
hoành tráng nhưng cũng không kém phần tinh xảo.
Những lỗ hình chữ nhật để kê trụ đỡ?
Một số nhà nghiên
cứu khi xem xét đã cho rằng, cột đá này mang tiểu tượng Linga của văn
hóa Champa. Cột đá biểu tượng cho sự sinh sôi, nảy nở, cầu mưa thuận gió
hòa.
Tuy nhiên, hầu hết
các nhà nghiên cứu của nước ta, như TS Lê Đình Phụng (Viện Khảo cổ), ông
Nguyễn Hùng Vĩ (giảng viên Trường ĐH KHXH&NV) đều bác bỏ thông tin
cho rằng cột đá là một cái Linga. Các nhà nghiên cứu đều cho rằng, qua 6
lỗ hình chữ nhật (đặt dầm chịu lực) ở gần đỉnh cột, có thể tin rằng cột
đá là trụ đỡ của một kiến trúc nào đó.
TS. Phụng tin rằng,
cột đá này có liên hệ với ngôi chùa Một Cột ở Thăng Long. Vua Lý Thánh
Tông đã xây chùa Một Cột sau giấc mơ hoa sen, và người con của ông, vua
Lý Nhân Tông cũng có thể dựng một ngôi chùa nữa như phiên bản trên núi
Đại Lãm. Theo đó, trên cột đá chùa Dạm người ta thờ Phật Quan Âm - gắn
liền với hình ảnh hoa sen.
Nhưng cũng có giả
thuyết khác cho rằng, trên đỉnh cột đá là tòa sen. Hình tượng rồng đội
tòa sen là mô típ rất phổ biến ở trong các ngôi chùa Việt.
Có một điều kỳ thú
khiến các nhà khoa học say mê tìm hiểu, đó là làm cách nào mà người xưa,
với công cụ thô sơ đã vận chuyển được khối đá khổng lồ này lên gần đỉnh
núi Dạm? Theo tính toán, cột đá này nặng ít nhất 54 tấn.
Những bức tường kè đá vô cùng hoành tráng.
Loại đá làm cột này
không có trong vùng Bắc Ninh, mà phổ biến ở vùng Hải Dương, Quảng Ninh.
Các nhà khoa học cho rằng, người xưa đã vận chuyển cột đá theo đường
sông Hồng, rồi đào ngòi Con Tên đến tận chân núi để kéo khối đá. Sau đó,
họ mở một con đường dẫn lên núi mà độ dốc ở mức tối thiểu. Những khúc
gỗ làm dầm chịu lực phải là loại gỗ lim hoặc cứng tương đương và số
người thực hiện vận chuyển khối đá này phải lên đến cả trăm người, cùng
trâu mộng, voi, ngựa.
Cùng với cột đá
khổng lồ, quả núi Dạm từng tồn tại một ngôi chùa vô cùng hoành tráng.
Trải qua chiến tranh loạn lạc, rồi tiêu thổ kháng chiến thời Pháp, ngôi
chùa đã bị phá hủy hoàn toàn.
Các nhà khảo cổ học đã đào nhiều hố thám sát ở di tích chùa Dạm.
Hòa thượng Thích
Thanh Dũng cho biết, chùa Dạm còn có nhiều tên khác nhau như là Đại Lãm,
Cảnh Long Đồng Khánh tự, chùa Tấm Cám. Gọi là chùa Tấm Cám, vì chùa
được khởi dựng để làm nơi tu hành của Nguyên Phi Ỷ Lan, cũng là nơi khởi
nguồn truyện cổ tích Tấm Cám. Trên núi hiện còn một cái giếng có tên
gọi là Bống. Hiện tại, nền thứ ba và bốn của ngôi chùa vẫn còn dấu tích
chùa và đền thờ Bà Tấm - Nguyên phi Ỷ Lan.
Chùa Dạm được xây
dựng vào năm 1086. Sau hơn 10 năm xây dựng, năm 1097 chùa Dạm mới hoàn
thành. Vua Lý đã đặt tên chùa là Cảnh Long Đồng Khánh, ban 300 mẫu tự
điền (ruộng thuộc nhà chùa) để chùa có hoa lợi.
Tấm bia Hậu Lê ghi lại lịch sử chùa Dạm.
Chùa
Dạm được xây dựng trên diện tích trên 2 mẫu Bắc Bộ, với 4 cấp cao dần
lên đỉnh núi. Các cấp nền đều có xếp đá lớn chống xói lở, cao tới 6-7m.
Ngôi chùa này cũng từng được gọi là chùa Trăm Gian, vì chùa rất rộng
lớn, với hàng trăm gian nhà.
Tuy
nhiên, giờ đây, thứ còn lại của ngôi chùa khổng lồ khi xưa chỉ là cột
đá chạm rồng, cùng những bức tường đá vĩ đại kè núi. Nhìn những bức
tường xếp đá khổng lồ như tường thành vẫn còn lại đến ngày nay có thể
hình dung được sự hoành tráng của ngôi chùa này.
Cũng
theo hòa thượng Thích Thanh Dũng, Nhà nước đã có dự án phục dựng lại
chùa Dạm. Đây là dự án khổng lồ, ngốn kinh phí hàng trăm tỷ đồng. Hiện
tại, việc khai quật khảo cổ đã hoàn tất và sẽ triển khai dựng chùa trong
thời gian không xa. Với chùa Dạm, Bắc Ninh sẽ lại có một công trình đồ
sộ phục vụ Phật tử cả nước.
Diễm Nguyệt
(Nguồn: http://vtc.vn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét